CHỦ
NHẬT LỄ HIỆN XUỐNG
Sự sống sung mãn là một ơn ban của Thánh Thần.
Tiếng kêu tự bản năng con người, ngay từ khởi thủy là đây: SỐNG!, ĐƯỢC SỐNG
SUNG MÃN VÀ ĐƯỢC SỐNG MUÔN ĐỜI. Nhưng tội lỗi giam hãm con người trong chính nó
và dẫn đến thất bại. Sự Sống đích thực, chính là Thần Khí. Mạc khải Ki tô giáo
khẳng định rằng Thánh Thần sẽ được ban cho chúng ta. Lễ Hiện Xuống chính là Lễ
của Thánh Thần, đồng thời đánh dấu mùa Phục sinh kết thúc. Chính từ biến cố Hiện
Xuống mà sự canh tân một thế giới tái tạo bởi Thiên Chúa được khẳng định.
Công vụ
2,1-11
Biến cố Hiện xuống là điểm khởi hành. Tất cả những
gì được ghi chép lại trong sách Công vụ có mục đích cho thấy sự bùng nổ của
Thánh Thần trong thế giới. Và chúng ta cũng được loan báo công cuộc tái hợp
nhất nhân lọai đang được tiến hành ngang qua Lịch sử nhờ các tín hữu được thấm
nhuần Tình yêu Thiên Chúa.
Thánh vịnh
103
Người Do thái ca tụng Thần khí Thiên Chúa, diễn tả
sức năng động của Người, nguồn suối phát sinh sự sống của thiên nhiên. Đối với
người ki tô hữu, Thánh Thần là nguồn suối phát sinh một sự Tái Tạo đích thật.
Bằng cách đảo lộn tâm hồn con người, Người tìm cách tái định hướng đến một thế
giới phản ánh Vinh quang Thiên Chúa.
Thư gửi tín
hữu Rô ma 8,8-17
Theo ngôn ngữ thánh Phao lô, xác thịt chính là con
người co cụm lại với chính mình, chỉ quan tâm đến các ước muốn của mình. Còn
Thần khí, chính là một hình thái sự sống mới được Thánh Thần Thiên Chúa khơi
dậy. Người giúp chúng ta định vị chính xác trước mặt Thiên Chúa, trước mặt
người khác, trước mặt thế giới. Không gì có thể phá hủy được Người. Như Chúa
Giê su sống lại, chúng ta được mời gọi luôn luôn sống kết hợp với Chúa.
Tin mừng Ga
20,19-23
NGỮ CẢNH
So sánh với đoạn văn song song của Lu ca giúp ta
nhận thấy rằng trong khi Lc dừng lại ở việc nhận biết Chúa Giê su phục sinh,
thì Gio an lướt qua để dừng lại lâu hơn nơi con người Chúa Giê su đang hướng về
tương lai và thông ban các quyền năng của Ngài. Như thế chủ ý của ông là muốn
nhấn mạnh đến sứ mệnh của Giáo Hội phát sinh từ cuộc Phục sinh của Chúa Giê su.
Có thể đọc bản văn theo bố cục sau đây:
Thời gian, nơi chốn hoàn cảnh cuộc hiện ra: 19abc.
Chúa Giê su hiện đến (19d-20a) được các môn đệ
nhận ra (20b).
Lời chào, sai đi, trao banThánh Thần và sứ mạng
(21-23).
TÌM HIỂU
Vào chiều ngày ấy: bà Ma ri a Ma đa lê na đi ra mồ
từ « sáng sớm » (20,1). Đối với nhóm Mười Một, một ngày dài đã trôi
qua trước cuộc hội ngộ nầy. Các cuộc hiện ra của đấng Phục sinh với các môn đệ
diễn ra vào buổi chiều (6,16; 13-17), nhưng cũng còn trong ngày thứ nhất
(20,1.26).
Các cửa đều đóng kín: niềm tin của Ma đa lê na đầy
ngẫu hứng và tình cảm. Bà đi thẳng đến Chúa và đã gặp thấy Ngài. Còn các môn đệ
thì khác chưa hết “sốc” bởi nỗi sợ hãi người Do thái; dù có những bước
chân của Phê rô và Gio an, họ vẫn còn ẩn trốn trong nhà. Vì thế Chúa Giê su cần
phải cho họ niềm xác tín là Ngài đã sống lại. Các trình thuật nầy có lẽ phản
ánh nỗi khó khăn mà Giáo hội gặp phải: một vài người mạnh dạn đến với Chúa,
trong sự đơn sơ của niềm tin; một số khác thì chậm chạp hơn vì nhiều thử thách
mà cộng đoàn phải vượt qua.
Chúa Giê su đứng giữa các ông: “Đâu có hai hay ba
người tụ họp nhân danh ta, có ta ở giữa họ” (Mt 18,20).
“Bình an cho anh em”: lời chào được lặp lại ở câu
21. Đó là câu chào hỏi bình thường trong ngôn ngữ sê mít. Tuy nhiên, bình an là
một khái niệm giàu ý nghĩa bao hàm toàn bộ những gì làm cho cuộc sống được hạnh
phúc. Sự bình an của thời đại cánh chung là một ơn ban quí giá nhất của Thiên
Chúa dành cho con người đã được các tiên tri loan báo. Ơn trên được ban cho là
nhờ vào những nỗi khổ đau mà người Tôi Tớ phải gánh chịu: “Chính người đã bị
đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa
trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa
lành” (Is 53,5).
Khi Chúa Giê su xuất hiện ở giữa các môn đệ của
Ngài, không những Ngài cầu chúc, mà còn ban cho sự bình an (x.14,27; 16,33).
Sau nầy Phao lô sẽ nói về Đức Ki tô rằng: Ngài qui tụ các kẻ thuộc về Ngài
trong chính sự chết và sự phục sinh của Ngài: “Ngài là chính sự bình an của
chúng ta” (Ep 2,14).
Xem tay và cạnh sườn: như ở Lu ca 24,39, Chúa Giê
su muốn liên kết các đau khổ mà Ngài đã chịu với cuộc phục sinh của Ngài, khi
tỏ cho thấy các vết thương của Ngài. Trong các tác giả tin mừng, chỉ có Gio an
nói, và nói ba lần (ở đây và cc, 25-27) đến vết thương cạnh sườn Ngài (x.
19,34-37).
Vui mừng: giờ đây mọi sự đã thay đổi. Với sự phục
sinh, lời kinh của Chúa Giê su dâng lên Cha đã được chấp nhận: “Để họ được
hưởng trọn vẹn niềm vui của con” (Ga 17,l3).
Thầy cũng sai anh em: Chúa Giê su hiện ra với các
môn đệ của Ngài không chỉ để gợi lại cho họ kí ức về Ngài, nhưng còn để sai
phái họ ra đi. Cả bốn tin mừng đều đồng qui về điểm đó (Mt 28,19; Mc 16,15; Lc
24,47; x. Cv 1,8).
Sứ mạng đó là một trong những đối tượng các lời
cầu nguyện của Chúa Giê su cho các môn đệ của Ngài (17,18). Và cũng nhằm nối
tiếp sứ mạng mà Ngài đã lãnh nhận từ nơi Chúa Cha. Chúa Giê su lặp
lại “Bình an cho các con”. Ra đi vào thế gian, họ mang theo mình sự bình
an của Thiên Chúa.
Thổi hơi: đối với Gio an, cử chỉ nầy là dấu chỉ
đưa đến một thực tại sâu xa hơn. Hơi thở mà Chúa Giê su khi sinh thì, đã trao
lại trên thánh giá (19,30) là hơi thở của Thiên Chúa, tức là Thánh Thần. Ơn ban
Thánh Thần đó được liên kết mật thiết với cái chết và sự phục sinh của Ngài. Lu
ca bố trí biến cố Thánh Thần hiện xuống năm mươi ngày sau (Cv 2,1-4), cũng đặt
mối tương quan đó trong một lời Chúa Giê su hứa cho các môn đệ vào chính ngày
Phục sinh (24,49).
Với sự phục sinh Chúa Giê su, lịch sử cứu độ đạt
tới giai đoạn cuối cùng. Vào lúc khởi đầu: Thiên Chúa đã “thổi sinh khí”
(Stk 2,7) vào lỗ mũi người nam. Chúa Giê su phục sinh ngự tại trung tâm thế
giới mới, mà ngài đã tác sinh bằng cách thông truyền hơi thở của chính Thiên
Chúa để cho thế giới được sống.
Tha tội: sứ mạng truyền giáo bao gồm việc tha tội
(x. Lc 24,47). Ngay từ đầu, sách tin mừng Gio an đưa ra một lời mời gọi tiếp
nhận sự sống ngang qua niềm tin vào Chúa Giê su; do đó, tội lỗi, căn bản chính
là sự từ chối tin. Gia nhập vào cộng đoàn các tín hữu, tức là những người đặt
niềm tin vào Chúa Giê su phục sinh, có nghĩa là xác nhận rằng tội riêng đã được
tha thứ.
Cầm giữ ai: tha thứ-cầm giữ chỉ là hai mặt song
đối của một tổng thể duy nhất là sứ mạng của Chúa Giê su hoàn toàn hướng về ơn
cứu độ (3,16-17; 5,20-30).
SỨ ĐIỆP
Chúng ta đã đọc bài tin
mừng nầy cách đây mười lăm ngày. Nhưng các bài đọc thánh kinh được đề nghị cho
Thánh lễ Hiện Xuống mang lại cho nó một luồng sáng mới. Hôm nay là lễ của Ơn
ban Thánh Thần cho các Tông đồ và cho toàn thể Hội Thánh. Một điều đáng để ý là
nhân cơ hội nầy, tin mừng chỉ nói với chúng ta về tình yêu. Bình thường chúng
ta muốn nói về Thánh Thần như một đấng mang đến cho chúng ta niềm cảm hứng, các
ý tưởng, sự biện phân, sự hiểu biết. Nhưng Chúa Giê su nói với chúng ta về một
điều khác hẳn. Thánh Thần là một Tình yêu nhân cách hóa. Điều đó không có gì lạ
lùng, bởi vì, Thánh Gioan đã viết: “Thiên Chúa là tình yêu”.
Vào buổi sáng ngày Hiện xuống, các môn đệ đầy tràn
Chúa Thánh Thần. Đó chính là Tình yêu của Thiên Chúa xâm chiếm họ. Đối với
chúng ta, những người ki tô hữu đã được rửa tội và thêm sức cũng như thế. Khả
năng yêu thương của chúng ta bị chính tình yêu của Thiên Chúa chiếm hữu. Từ nay,
chúng ta có thể trở thành người Do thái với người Do thái, người Ả rập với
người Ả rập, người Phi châu với người Phi châu và nhất là chúng ta có thể cảm
nghiệm sự nghèo khổ với những người nghèo. Tình yêu ấy của Thiên Chúa ngự trong
chúng ta thúc đẩy chúng ta gặp gỡ người khác trong chính điều họ đang sống. Đức
Ki tô nhấn mạnh rất rõ ràng vế mối liên kết giữa tương quan của chúng ta với
Thiên Chúa và tương quan giữa chúng ta với anh em: “Nếu anh em yêu mến Thầy,
anh em sẽ trung thành với các giới răn của Thầy”. Điều răn ấy chúng ta đều
biết: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).
Yêu thương nhau chính là phục vụ tha nhân, như việc rửa chân vào chiều thứ năm
tuần thánh mà Chúa Giê su đã làm gương cho chúng ta.
Ai yêu mến Đức Ki tô không thể không dấn thân phục
vụ anh em mình. Tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và tình yêu của chúng
ta đối với anh em mình không thể tách rời được. Nhìn cách chúng ta phục vụ anh
em mà người ta có thể phán đóan về phẩm chất tình yêu của chúng ta đối với
Thiên Chúa. Chúa của chúng ta quí chuộng mỗi người như là phẩm vật quí giá nhất
của Người. Nếu Chúa Giê su chết trên thánh giá, thì quả thật chính vì tình yêu
đối với tất cả mọi người không loại trừ ai. Ai không phục vụ người khác thì
không thể nói rằng mình yêu mến Thiên Chúa. Thánh Gioan còn đi xa hơn: “Nếu ai
yêu mến Thầy, và trung thành giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và
chúng ta sẽ đến với người ấy và chúng ta sẽ ở trong người ấy”. Chúng ta nên
hiểu cho kỹ, Chúa Giê su không có ý nói rằng nếu chúng ta không phục vụ người
khác, Chúa Cha có thể không yêu thương chúng ta. Trong Thiên Chúa, không có sự
mặc cả hay điều kiện. Người là Tình yêu và lòng Thương xót; điều đặc biệt nơi
lòng thương xót của Người đó là Người dành nhiều ưu ái hơn cho những kẻ khốn
cùng, những kẻ cần được yêu thương và được phục vụ.
Vì thế, trang tin mừng nầy là một lời mời gọi tiếp
nhận tình yêu không giới hạn ở nơi Thiên Chúa. Nếu chúng ta đi theo hướng ấy,
tâm hồn chúng ta sẽ rộng mở. Tình yêu của Thiên Chúa càng ngày càng xâm chiếm
tâm hồn, giúp chúng ta phục vụ anh em mình một cách đắc lực hơn. Nhưng tất cả
tùy thuộc vào việc chúng ta biết chịu khó “kín múc tận nguồn” tình yêu, niềm
vui và bình an ấy ở trong Thiên Chúa. Chúng ta chỉ chuyển thông cho thế gian
điều mà chúng ta được Thiên Chúa ban phát trong lời cầu nguyện và đón nhận Lời
Thiên Chúa.
Thần khí của Chúa Giê su được ban cho chúng ta để
chúng ta thi hành sứ vụ. Nhưng thường luôn có sự chống đối trong chúng ta. Tin
mừng hôm nay nói với chúng ta rằng chúng ta có một đấng bào chữa. Tất cả chúng
ta đều cần đến Người, không phải để chống lại Thiên Chúa, vì Người là Tình yêu,
mhưng để chống lại chính mình. Rất thường, chúng ta nói: “Tôi không thể làm
được, tôi quá già.. hoặc quá trẻ.. chúng tôi không có đủ người. Theo ý kiến
chúng tôi, điều đó không thể thực hiện được”. Nhưng đấng bào chữa hiện diện để
bênh vực cho người khác. Người là đấng đã thúc đẩy các môn đệ ra trước đám
đông, đến với những người đã lên án Chúa Giê su chết trên thánh giá.
Nghĩ đến Chúa Thánh Thần, thì điều trước tiên là
thưa với Người: “Xin hãy đến!” Bấy giờ, Người sẽ là đấng xâm chiếm tâm hồn.
Cuộc sống ki tô hữu của chúng ta trở thành một kinh nghiệm sự sống tràn đầy
Thánh Thần. Vừa đến, Người hoạt động ngay. Chính Người phát động Giáo Hội trên
khắp thế gian. Chúng ta cần phải thưa với Người rằng: “Xin hãy đến” khi có bế
tắc nơi chúng ta, khi chúng ta sợ dấn thân, khi chúng ta không thể tha thứ. Khi
bị thử thách hay khó khăn cùng cực, Người sẽ trở thành đấng bảo vệ, để giúp
chúng ta hiểu rằng đối với Thiên Chúa, không có tình cảnh nào là tuyệt vọng cả.
Người là sức mạnh để khởi đầu và khởi đầu lại, là đấng không biết mệt mỏi thúc
đẩy chúng ta bước tới trước. Tất cả đều tùy thuộc vào sức mạnh của lời cầu xin:
“Xin hãy đến!” mà ai trong chúng ta cũng có thể dâng lên Người.
Chúng ta hãy cầu xin Người giải thoát chúng ta
khỏi những nỗi sợ hãi đóng khung chúng ta, những thói quen, những thành kiến và
những điều không hài lòng. Ước gì Người biến chúng ta thành những con người tự
do!
ĐÀO SÂU
THÁNH THẦN
ĐƯỢC BAN XUỐNG
Cv 2,1-11 Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các môn
đệ
Tv 104,1ab+24ac, 29b-30, 31+34 Xin sai Thánh Thần
Chúa đến để canh tân bộ mặt địa cầu
Rm 8,8-17 Chúa Thánh Thần biến chúng ta thành con
cái Thiên Chúa
Ga 14,15-16, 23b-26 Chúa Thánh Thần sẽ dạy anh em
mọi điều
1. HỎI: Ba
bài đọc liên kết với nhau theo chủ đề nào?
THƯA: THÁNH THẦN ĐÃ ĐƯỢC BAN
XUỐNG cho tất cả các môn đệ Đức Ki tô (Bđ1). Người sẽ nhắc họ mọi điều Chúa Giê
su đã dạy (BTM). Chính Người sẽ biến chúng ta thành con cái Thiên Chúa (Bđ2).
2. HỎI: Nội dung bài đọc một như thế nào?
THƯA: Bài đọc thứ nhất trích từ sách Công vụ Tông
đồ (2,1-11), tác phẩm thứ hai của Thánh Lu ca, kể lại biến cố Chúa Thánh Thần
hiện xuống trên các môn đệ vào ngày lễ Ngũ tuần. Tác giả nói về Chúa Thánh
Thần, sự hiện diện của Thiên Chúa mạnh mẽ và năng động bằmg những hình ảnh lửa
và gió. Chính Ngài kéo Giáo Hội ra khỏi nỗi sợ hãi co cụm nơi chính mình, và
dạy ngôn ngữ phù hợp cho tất cả mọi người đón nhận Lời của Tin mừng.
3. HỎI: Đâu
là bối cảnh của cuộc Hiện xuống?
THƯA: Đó là Thành Giê-ru-sa-lem
và lễ Ngũ tuần. Thành Thánh Giê-ru-sa-lem là thành của ơn ban Thánh Thần: đó
không chỉ là nơi Chúa Giê su thiết lập bí tích Thánh thể, nơi Ngài sống lại, mà
còn là nơi Thánh Thần được ban xuống cho nhân loại. Vào thời Chúa Giê su, lễ
Ngũ tuần của Do thái giáo rất quan trọng: đó là lễ kỉ niệm ơn ban lề luật, một
trong ba lễ lớn hằng năm mà các tín hữu phải hành hương về Giê-ru-sa-lem mừng
lễ.
4. HỎI:
Thánh Lu ca muốn gợi lại ba bản văn nào của Cựu Ước?
THƯA: Thánh Lu ca muốn gợi lại
ba bản văn nầy: một là bản văn bản Lề luật trên núi Si-nai (Xh 19); hai là lời
sấm Tiên tri Giô-ên (Ge 3); và ba là câu truyện tháp Ba-bên (Stk 11,1-3)
5. HỎI:
Những dấu nào gợi lại bản văn ban lề luật trên núi Si-nai?
THƯA: Đó là lưỡi lửa, tiếng
động giống như một luồng gió mạnh, gợi nhớ lại những gì đã xảy ra ở trên núi
Si-nai khi Thiên Chúa ban lề luật cho ông Mô-sê (x. Xh 19).
6. HỎI:
Thánh Lu ca có ý gì khi gợi lại biến cố Si nai?
THƯA: Thánh Lu ca muốn cho thấy
lễ Ngũ tuần nầy là một biến cố Si-nai mới. Cũng như Thiên Chúa đã ban lề luật
cho dân để dạy họ sống theo Giao Ước, thì từ nay Người ban Thần khí của Người
cho dân, như lời tiên tri Ê-dê-ki-ên loan báo: ‘Ta sẽ đặt trong tâm hồn chúng
Thần khí của Ta, Ta sẽ dạy chúng đi theo lề luật, tuân giữ và thực hiện các
điều luật của ta, chúng sẽ là dân ta và ta sẽ là Thiên Chúa của chúng’ (Êd
36,27; x. Gr 31,33). Từ nay luật Thiên Chúa được ghi khắc trong tâm hồn chứ
không còn trên những phiến đá nữa như xưa nữa.
7. HỎI: Điều
gì cho thấy Thánh Lu ca muốn gợi lại lời sấm Gio-ên?
THƯA: Tiên tri Gio-ên loan báo:
‘Ta sẽ đổ thần khi của Ta trên mọi xác phàm’ (Ge 3). Nên sự kiện nhiều dân tộc
khác nhau hiện diện ở Giê-ru-sa-lem cũng như việc người Do thái từ khắp nơi đổ
về Giê-ru-sa-lem dự lễ cho thấy lời sấm Giô-ên đã được hoàn tất.
8. HỎI: Tại
sao Thánh Lu ca muốn gợi lại câu truyện về tháp Ba bên?
THƯA: Câu chuyện về ngày Ngũ
tuần trong Lu ca theo sát đường hướng câu chuyện tháp Ba bên: ở Ba bên, nhân
loại học được sự khác biệt, còn ở ngày lễ Ngũ tuần, họ học được sự duy nhất
trong sự khác biệt: từ nay, mọi dân tộc đều đồng thanh công bố sứ điệp duy nhất
về những điều kì diệu của Thiên Chúa bằng các ngôn ngữ của họ.
9. HỎI: Bài
đọc 2 (1 Cr 12, 3b-7.12-13) có nội dung như thế nào?
THƯA: Thánh Phaolô kêu gọi các
tín hữu Cô-rin-tô đoàn kết hiệp nhất nhau trong Chúa Thánh Thần, vì Chúa Thánh
Thần ban nhiều đặc sủng khác nhau là để phục vụ lợi ích chung của cộng đoàn. Vì
thế, phải tránh chia rẽ và phải tận dụng mọi ơn ban của Chúa Thánh Thần để xây
dựng thân thể Giáo Hội.
10. Ngữ cảnh
bài Tin mừng (Ga 20, 19-23) như thế nào?
THƯA: Đoạn Tin mừng nằm trong
chương 20 là chương cuối cùng của phần 2 ‘Sách về Giờ của Chúa Giê su’, kèm
theo lời kết cho thấy mục tiêu của tác giả khi viết Tin mừng. Sau khi phát hiện
ra ngô mộ trống, Maria Ma-đa-lê-na chạy về báo tin cho các môn đệ (20,1-10) và
được Chúa Giê su hiện ra với bà (11-18). Buổi chiều Ngài hiện đến với các ông
(19-23). Có hai phần: 1) Lời chào ‘bình an’ thứ nhất với việc chứng minh sự
Phục Sinh (20,19-20); 2) Lời chào ‘bình an’ thứ hai với sứ mạng và trao ban
Thánh Thần (20,21-23).
11. HỎI: Các
cửa đều đóng kín, nhưng Chúa Giê su vẫn đến được, cho thấy gì?
THƯA: Cho thấy rằng Ngài đang
sống trong một điều kiện thể lí khác hẳn trước, thân xác phục sinh của Ngài
không còn bị ràng buộc bởi các định luật vật lí như chúng ta.
12. HỎI:
‘Nơi các môn đệ ở’, nơi nào?
THƯA: Có lẽ Gioan nghĩ đến một
căn phòng ở Giê-ru-sa-lem, và dường như đây cũng chính là nơi các môn đệ ở khi
Maria Ma-đa-lê-na đến tìm các ông (20,18).
12. HỎI: Tại
sao Chúa Giê su chúc các tông đồ hai lần: ‘Bình an cho các con’?
THƯA: Vào chiều Phục sinh, Chúa
Giê su tỏ mình ra cho các tông đồ và hai lần chào chúc bình an cho họ. Giữa hai
lần chào chúc, Ngài tỏ cho thấy các dấu tích của cuộc Khổ nạn. Qua đó, Ngài
muốn nói rằng bình an Ngài ban không giống bình an của người đời. Trái lại đó
là thứ bình an đích thực, được thông ban bằng chính máu của Ngài trong cuộc Khổ
nạn. Niềm vui và bình an Ngài ban là kết quả của cuộc Khổ nạn ấy.
13. HỎI: Tại
sao Chúa Giê su thổi hơi vào các ông khi trao ban Thánh Thần?
THƯA: Cũng như Thiên Chúa đã
thổi hơi ban sự sống cho con người đầu tiên (Stk 2,7; Kn 15,11), Chúa Giê su
thổi hơi Thánh Thần tái tạo họ để trao ban sứ mạng dẫn đưa người khác đến với
nguồn sự sống mới.
14. HỎI: Như
thế, các môn đồ được Chúa Giê su trao ban Thánh Thần hai lần, một lần chiều
ngày Phục sinh (theo Gioan) và một lần nữa vào dịp lễ Ngũ tuần (Cv 2,1-4)?
THƯA: Hai sự việc được Gioan và
Luca tường thuật thật ra không phải hai lần trao ban Thánh Thần khác nhau,
nhưng là hai cách diễn tả cùng một biến cố. Cách diễn tả của Gioan nhấn mạnh
tính duy nhất của mầu nhiệm: Phục sinh và Hiện Xuống xảy ra trong một ngày
(khẳng định tín lí). Còn Lu ca thì cử hành mầu nhiệm Phục sinh trong nhiều thời
điểm khác nhau trong 40 ngày (mô tả giáo lí).
15. HỎI:
Quyền tha và cầm tội được trao ban cho các môn đệ nói lên điều gì?
THƯA: Truyền thống Công Giáo
vẫn coi những lời Chúa Giê su trao ban cho các môn đệ quyền tha và cầm tội là
lời thiết lập bí tích hòa giải. Từ nay, các môn đệ được ban cho quyền tha thứ
tội lỗi các tội nhân để giao hòa họ với Thiên Chúa.
16. HỎI:
Trong bài Tin mừng, Chúa Giê su nói về Chúa Thánh Thần như thế nào?
THƯA: Thường chúng ta khuynh
hướng nghĩ về Chúa Thánh Thần hoạt động để linh hứng, gợi ý, phân biện, giúp
hiểu biết. Ở đây Chúa Giê su nói với chúng ta về Chúa Thánh Thần như là Tình
yêu nhân cách hóa.
17. HỎI:
Điều đó có nghĩa là gì?
THƯA: Điều đó có nghĩa là buổi
sáng ngày lễ Ngũ tuần, ở Giê-ru-sa-lem, khi các môn đệ đầy tràn Chúa Thánh
Thần, thì chính tình yêu của Thiên Chúa xâm nhập tâm hồn họ. Cũng như chiếc
bình sành trong bàn tay của Thiên Chúa, chúng ta không ngừng được uốn nắn theo ý
Người muốn. Nếu chúng ta càng để cho Thần khí tình yêu biến đổi, thì chúng ta
càng trở nên giống Người hơn.
18. HỎI. Lễ
Hiện Xuống có phải là lễ tôn giáo quan trọng nhất không?
THƯA: Đúng là như vậy. Đó là lễ lớn nhất, vì chỉ ra con đường cho
Tin mừng được loan báo trên tòan thế giới. Đó là lễ Truyền Giáo của Giáo Hội
công bố cho mọi dân biết rằng Thiên Chúa Ba Ngôi ba lần thánh là Tình yêu.
19. HỎI.
Nhưng theo Phụng vụ, thì lễ Hiện Xuống nói lên điều gì?
THƯA: Lễ Hiện Xuống là cao điểm
của các lễ mùa Phục sinh và cùng với lễ Phục sinh, là đỉnh cao của Năm Phụng
vụ. Đó là lễ của Thánh Thần và là lễ của Giáo Hội, là ngày sinh ra Giáo Hội. Nó
nhắc chúng ta nhờ đến sự hiện diện và hoạt động kì diệu của Chúa Thánh Thần
trong Giáo Hội và trong đời sống con người. Hơn bao giờ hết, nhân lọai có trách
nhiệm to lớn là không được dập tắt hay cản trở hành động nầy. Thánh GH Gioan
Phao lô II nói trong thông điệp Redemptoris Missio rằng: ‘Chúa Thánh Thần là
nhân vật chính của Sứ mạng Giáo Hội’.
20. HỎI. Việc
tắt nến Phục sinh là dấu cho thấy Đức Ki
tô vắng mặt trong Giáo hội không?
THƯA: Không hẳn là như thế, dù
cho việc tắt nến Phục sinh được chỉ định trong ngày hôm nay cho thấy một hình
thức hiện diện mới của Đấng Phục sinh trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần, giữa
các môn đệ và ngang qua các ngài giữa mọi dân tộc.
21. HỎI:
Thực thi Sứ điệp của Lời Chúa như thế nào?
THƯA: 1. Khi chúng ta được rửa
tội và nhận bí tích Thêm Sức, Chúa Thánh Thần đã ‘hiện xuống’ trên chúng ta
rồi. Tuy nhiên phải hết lòng mong đợi và mở lòng mở trí, sẵn sàng đón nhận sự
xuất hiện và tác động của Thánh Thần Thiên Chúa trong tâm hồn và cuộc sống của
tôi.
2. Phải chuyên chăm và thiết tha cầu nguyện để xin
Chúa Thánh Thần hiện xuống và hoạt động trong tâm hồn và cuộc sống của tôi.
3. Phải trân trọng và nghe theo những soi sáng hay
tác động của Chúa Thánh Thần trong đời sống thường ngày, nhất là trong những
giờ phút cầu nguyện, tĩnh tâm, học hỏi và suy niệm Thánh Kinh và phục vụ tha
nhân.
4. Phải trân trọng những ân ban hay đặc sủng mà
Chúa Thánh Thần đã ban cho tôi và đem những ơn ấy ra phục vụ cộng đoàn, xây
dựng sự hiệp thông, tình hiệp nhất, sự liên đới và san sẻ giữa anh chị em đồng
đạo và đồng loại.
5. Chúng ta được sai đi, không phải một mình,
nhưng là có Chúa Thánh Thần ở với chúng ta trong mọi hoàn cảnh. Cho nên chúng
ta không phải ‘sợ’ kẻ thù, nhưng hãy mạnh dạn ‘mở cửa Đức tin’ cho người ta đến
với Chúa.
GLCG 1286 Trong Cựu Ước các tiên tri đã loan báo
rằng Thần Khí Chúa sẽ ngự xuống trên Đấng Messia thiên hạ đợi trông vì sứ vụ
cứu độ của Người. Việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu, khi Người
được ông Gioan làm phép rửa, là dấu chỉ cho thấy chính Người là Đấng phải đến,
chính Người là Đấng Messia, là Con Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã được thụ thai bởi
Chúa Thánh Thần; trọn cuộc đời và sứ vụ của Người đều hiệp thông trọn vẹn với
Chúa Thánh Thần, Đấng ‘Chúa Cha ban cho Người vô ngần vô hạn’ (Ga 3,34). (X.
Các tước hiệu của Chúa Thánh Thần 691-701. Quà tặng và hoa quả của Chúa Thánh
Thần 790-791, 798, 951, 1267. Hiệp nhất trong một thân thể 1830-1832).