Suy Niệm Lời
Chúa Chúa Nhật Tuần XXXI Thường Niên Năm A
TRÁNH THÓI GIẢ HÌNH VÀ KIÊU CĂNG CỦA NGƯỜI PHARISIÊU
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 23, 1-12
(1) Bấy giờ, Đức Giê-su nói với đám
đông và các môn đệ Nguời rằng: (2) “Các kinh sư và các người
Pha-ri-sêu ngồi trên tòa ông Mô-sê mà giảng dạy. (3) Vậy, những gì họ
nói thì anh em hãy làm, hãy giữ, nhưng đừng theo hành động của họ
mà làm, vì họ nói mà không làm. (4) Họ bó những gánh nặng mà chất
lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào.
(5) Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những
hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. (6) Họ ưa ngồi chỗ
nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, (7) ưa được
người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là
“ráp-bi”. (8) Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là “ráp-bi”, vì
anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. (9)
Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ
có một Cha là Cha trên trời. (10) Anh em cũng đừng để ai gọi mình là
người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Ki-tô.
(11) Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh
em. (12) Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; Còn ai hạ mình xuống, sẽ
được tôn lên.
2. Ý CHÍNH:
Tin Mừng hôm nay đề cập đến thái độ các môn
đệ phải có đối với Thiên Chúa và tha nhân. Phải tránh thói đạo đức
giả của các đầu mục Do thái vì “nói mà không làm”, “chỉ biết bó
nặng chất lên vai người khác” và “làm mọi việc để tìm tiếng khen”
nơi người đời. Các môn đệ phải tránh kiêu ngạo khi đòi làm thầy, làm
cha và làm người chỉ đạo đang khi chỉ có một ông Thầy tối cao là
Đức Giê-su, một Cha chung là Thiên Chúa và một vị Mục Tử duy nhất là
Đức Ki-tô.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-2: + Các kinh sư: Kinh sư hay luật sĩ,
là những thầy dạy về Luật pháp của Mô-sê. Đa số kinh sư là thành
viên của phái Pha-ri-sêu và có ảnh hưởng lớn trong đời sống tôn giáo
và chính trị của dân Do thái. Tại Giê-ru-sa-lem, các kinh sư chiếm 1/3
số ghế trong Thượng Hội Đồng Do Thái. Tại các địa phương như thị
trấn, làng xã, họ rất có uy tín đối với dân chúng và thường được
mời làm quan tòa xét xử các vụ tranh chấp. + Các người Pha-ri-sêu:
Pha-ri-sêu hay Biệt phái là một phái tôn giáo mà thành viên là những
người Do thái nhiệt thành và đạo đức. Họ tách biệt khỏi dân chúng
do cách ăn mặc và xử sự. Họ rất tôn trọng Thánh Kinh và các truyền
thống của cha ông. Có khi coi trọng truyền thống hơn cả Thánh Kinh như
đòi dân chúng phải tuân giữ các tục lệ của cha ông về ngày hưu lễ
Sa-bát rất chi li. Nhiều người trong phái Pha-ri-sêu có học vị kinh sư
hay luật sĩ. Người Pha-ri-sêu thường mắc phải các thói như giả hình,
kiêu căng, ganh tị… đã bị Đức Giê-su nặng lời quở trách (x Mt 23,1-22),
nên họ rất căm hận và tìm cách giết hại Người. + Ngồi trên tòa ông Mô-sê mà
giảng dạy: Toà của Mô-sê ngày xưa được đặt ở núi Sinai, nơi ông tuyên
bố luật pháp và ký kết giao ước giữa Thiên Chúa và dân Do Thái. Còn thời Chúa
Giêsu, tòa Mô-sê tức là bục giảng được kê trong hội đường. Các kinh sư
thường ngồi trên bục mà giảng dạy Luật Mô-sê vào ngày Sa-bát.
- C 3-4: + Những gì
họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ: Đức Giê-su dạy dân
chúng phải vâng nghe và tuân giữ những lời giảng dạy của các kinh sư
và Pha-ri-sêu, vì họ đang nắm giữ quyền hành phát xuất từ Thiên Chúa
(x Ga 19,11). Tuy nhiên dân chúng không được nghe theo những suy nghĩ hẹp
hòi (x. Mt 9,3-4) những kiểu giải thích Luật sai lạc vụ lợi (x. Mt 15,
1-20), nhất là phải tránh thứ men gian tà đạo đức giả của các kinh
sư và Pha-ri-sêu (x. Mt 16, 6). + Nhưng đừng theo hành động của họ:
Đừng bắt chước các gương xấu của các Biệt phái và kinh sư. Vì lời
nói của họ thường không đi đôi với việc làm. Họ thường “nói mà không
làm” hay “nói một đàng làm một nẻo !”. + họ bó những gánh nặng mà
chất lên vai người ta: “Bó nặng” hay cái “ách”, thường được
Đức Giê-su và các Tông đồ dùng để ám chỉ 613 điều khoản trong Luật
và những lề thói truyền thống mà dân Do Thái phải tuân giữ giống như
Lề Luật (x. Cv 15, 10). Điều này gợi lên hình ảnh một người nô lệ
phải vác những gánh nặng trên vai (x. Gl 5, 1), trái với “gánh nhẹ
nhàng” mà Đức Giê-su hứa ban cho các môn đệ (x. Mt 11, 30). Ở đây “gánh
nặng” ám chỉ lối giải thích Luật của các kinh sư Do Thái vừa chi
tiết vụn vặt, lại vừa nghiêm khắc và khó giữ được trọn vẹn. Điều
này đè nặng trên lương tâm của dân Do Thái, giống như cái “ách nặng”
được chủ buộc vào cổ trâu bò để bắt chúng cày bừa kéo xe. +
Nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào: Đức Giê-su tố
cáo sự ích kỷ và thiếu lòng thương xót của các kinh sư khi buộc dân
chúng tuân giữ Luật trong từng chi tiết, đang khi chính họ lại không thực
hành.
- C 5-7: + Họ làm mọi
việc cốt để cho thiên hạ thấy: Đây là thói háo danh của các kinh sư và
người Pha-ri-sêu. + Đeo những hộp kinh thật lớn: Hộp kinh chứa thẻ kinh.
Thẻ kinh là mảnh da mỏng trên đó viết 4 đoạn Kinh Thánh quan trọng là
Đnl 6, 4-9; 11,13-21; Xh 13, 3-10; 13, 11-16. Thẻ kinh này được chứa trong
hộp bằng gỗ nhỏ xíu mà người Do Thái thường cột vào tay và trán
mỗi khi đọc kinh cầu nguyện, để nhắc họ nhớ và tuân giữ (x. Xh 13,9).
+
Mang những tua áo thật dài: Các kinh sư và người Pha-ri-sêu
thường may áo có tua dài nhằm phô trương. Thói háo danh khiến họ muốn
được biệt đãi ở mọi nơi. + Ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc và
chiếm hàng ghế đầu trong hội đường: Người Do thái thường xếp
chỗ ngồi trong các đám tiệc hay trong hội đường theo tuổi tác, chức
vụ và tài năng. Tuổi tác và chức vụ là điều dễ dàng nhận ra, còn
tài trí khôn ngoan thì khó mà nhận biết. Các kinh sư và Pha-ri-sêu
thường tỏ ra có tài trí hơn người và tranh dành nhau ngồi chỗ nhất
trong đám tiệc và hội đường. + Ưa được người ta chào hỏi ở những
nơi công cộng: Họ tự coi mình là bề trên nên muốn được người
khác cúi chào ở nơi công cộng. + Ưa được người ta gọi mình là
“ráp-bi”: “ráp-bi” là tước hiệu dân chúng thường dùng khi thưa
chuyện với các tiến sĩ Luật. Các môn đệ cũng thường gọi Đức Giê-su
như thế (x. Mt 26, 25.49; Ga 20, 16).
- C 8-10: + Đừng để ai
gọi mình là “ráp bi”: Đức Giê-su không đả phá các chức vụ xã
hội hay phẩm trật trong Hội Thánh. Nhưng Người muốn các môn đệ đừng
tự cao khi đòi người khác phải gọi mình là “ráp bi” nghĩa là
“Thầy”. Do đó câu này có thể dịch như sau: “Anh em đừng ham làm thầy
thiên hạ” (x. Gc 3, 1). + Vì anh em chỉ có một Thầy:
Người duy nhất xứng đáng làm “Thầy” không ai khác hơn là Đức Giê-su
(x. Ga 13, 13-14). Còn tất cả mọi người đều là môn đệ và anh em với
nhau. + Đừng gọi ai dưới đất là cha: Đức Giê-su không đả phá
cách xưng hô cha con trong gia đình, vì chính Người đã từng dạy người
ta phải hiếu kính cha mẹ (x. Mt 15, 4-6; 19, 19). Người cũng không chống
lại thói quen trong Thánh Kinh: đồ đệ nhận sư phụ làm cha tinh thần
như ngôn sứ Ê-li-sa gọi ngôn sứ Ê-li-a là “Cha ơi !” (x. 2 V 2, 12). Thánh
Phao-lô cũng ví mình như người cha trong Đức Ki-tô mà nhờ Tin Mừng
ngài đã sinh ra các tín hữu (x. 1 Cr 4, 14-17; Gl 4, 19; Plm 10), và đã
cư xử với họ như cha với con (x. 1 Tx 2, 11). + Chỉ có một Cha là Cha trên
trời: Cha trên trời ám chỉ Thiên Chúa. Chỉ có một Thiên Chúa
là Cha theo bản tính. Do đó, khi ai được người khác gọi là cha thì phải
ý thức mình là cha theo nghĩa được tham phần vào tước hiệu của Thiên
Chúa Cha. + Đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo: người lãnh
đạo được hiểu là mục tử và thủ lãnh cộng đoàn. Chỉ mình Đức
Giê-su mới là Mục Tử duy nhất vì Người đã hy sinh mạng sống cho đoàn
chiên (x. Ga 10, 11). Còn các mục tử khác như linh mục, mục sư… chỉ
được tham phần vào chức vụ lãnh đạo tối cao của Đức Giê-su mà thôi.
- C 11-12: + Người làm
lớn hơn phải là người phục vụ: Đức Giê-su nhắn nhủ các môn đệ phải
có lòng khiêm nhường, tự hạ và tôn trọng kẻ khác. Họ không được tranh
giành nhau địa vị (x. Mt 20, 21-28), nhưng phải phục vụ nhau (x. Mt 20,28;
Ga 13, 14). + Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống: Đức Giê-su không cấm
các môn đệ chu tòan bổn phận dạy bảo các tín hữu (x Mt 28, 20). Nhưng
Người đòi các ông thi hành quyền lãnh đạo trong tinh thần khiêm hạ
phục vụ (x. 1 Pr 4, 10-11). + Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên:
Ai càng phục vụ thì càng có địa vị cao trong cộng đoàn (x. Mt 25, 34-36),
xứng đáng được “sự sống muôn đời” (x. Mt 25, 46).
4. CÂU HỎI:
1) Các kinh
sư và người Pha-ri-sêu là những ai? Khác nhau thế nào? 2) Ngồi trên
tòa ông Mô-sê nghĩa là gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Các kinh
sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên tòa ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy
những gì họ nói thì anh em hãy làm hãy giữ. Nhưng đừng theo hành
động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm” (Mt 23, 2-3).
2. CÂU CHUYỆN:
1. BÀI HỌC NHỚ ĐỜI
Trong một làng kia, có một ông thầy đồ. Ông
nghĩ mình là người hay chữ nên hay khinh thường dân làng. Một hôm,
thầy đồ leo lên một chiếc đò để qua bên kia sông ăn giỗ. Hôm ấy đang
mùa nước lũ, nên dòng sông chảy xiết. Khi bác lái đò chèo thuyền ra
tới giữa dòng, thì thầy lên tiếng hỏi: “Này ông lái đò, ông có biết
chữ “nhất một, nhị hai” không? Bác lái đò đáp: “Thưa không”. Thầy đồ
nói: “Thế là ông đã đi đứt phân nửa cuộc đời rồi đó!” Bấy giờ
thuyền gặp chỗ nước chảy mạnh, một khúc cây đụng phải thuyền làm
nó chao đảo mạnh rồi lật úp, hất cả hai người xuống sông. Cũng may,
bác lái đò đã kịp thời nắm được cánh tay ông thầy đồ, trước khi ông
bị nước cuốn đi. Bác lái đò vừa bơi vừa hỏi thầy đồ: “Thưa thầy,
thầy không biết bơi sao?” Thầy hổn hển đáp lại: “Không, không”. Bác lái
đò liền nói: “Thế là thầy đã đi đứt cả cuộc đời rồi đó !”. Nói
xong, bác ta tiếp tục dìu thầy vào bờ. Hôm ấy thầy đồ bị một phen
hú vía và uống no thứ nước sông nhơ bẩn. Từ ngày ấy, thầy đồ ít nói
hẳn và không bao giờ còn dám tỏ ra khinh thường những người ít học
nữa.
2. MỘT VỊ ĐẠO SĨ GIẢ HIỆU:
Đêm kia tại một làng đánh cá bên Ấn Độ, một ngư
phủ nghèo lẻn vào trong hồ cá của một người nhà giàu để thả lưới bắt cá. Nhưng
chưa kịp kéo lưới lên thì đã bị người giàu phát hiện phải chạy trốn. Người này
cho gia nhân bao vây hồ rộng mênh mông để bắt cho bằng được tên trộm.
Đám gia nhân đốt đuốc đi tìm khắp nơi nhưng vẫn không
tìm thấy bóng dáng của tên trộm đâu cả. Trong khi đó thì anh ngư phủ nghèo đã
lấy tro rắc lên đầy mình và đến ngồi dưới một gốc cây gần đó y như một nhà đạo
sĩ.
Sau nhiều giờ tìm kiếm, đám gia nhân không thấy kẻ
trộm mà chỉ thấy một đạo sĩ ngồi dưới gốc cây đang đắm mình trong suy tư và cầu
nguyện. Ngày hôm sau, tiếng đồn về một vị đạo sĩ đang ngồi tu luyện dưới gốc
cây bên bờ hồ của nhà phú hộ đang vang đi khắp vùng. Thế là thiện nam tín nữ từ
các ngã đường đổ xô đến gốc cây cạnh hồ để chiêm ngưỡng vị tu hành. Người thì
mang hoa quả, kẻ thì mang tiền bạc. Chẳng mấy chốc mà đồ cúng được đổ tràn lan
quanh nhà tu hành bất đắc dĩ. Bấy giờ nhà tu hành đã nhủ thầm rằng: Thà ta cứ đánh
lừa bà con để sống thoải mái, còn hơn phải đi đánh cá vất vả mà chẳng bắt được
gì. Nghĩ thế rồi, ông ta tiếp tục đóng vai nhà tu hành đắc đạo: ngày đêm ông tụng
niệm và nhận được các đồ ăn dân làng mang tới dâng cúng.
3. GƯƠNG KHIÊM HẠ NGHÈO KHÓ CỦA MỘT GIÁM MỤC:
Đức Cha Bernard Topel (1903-1986) Giám Mục giáo
phận Spokane, Wa. Hoa Kỳ, đã viết trên báo của Giáo phận: “Trong thời kỳ họp
Công Đồng, các Giám Mục thường hay nói về Giáo Hội như Giáo Hội của người
nghèo, tôi nghe mà sinh bối rối, vì tôi chưa thấy chúng ta là Giáo Hội của
người nghèo chút nào cả!” Từ cái bối rối này, Đức Cha Topel đã thực thi quyết
nghị của Công Đồng giống như Thánh Phanxicô Assisi thực thi Lời Chúa: Đức Cha
đã bán Tòa Giám Mục, nhẫn vàng, thánh giá, giây đeo và gậy cẩn ngọc thạch để
lấy tiền giúp cho người nghèo. Với bốn ngàn đô, Ngài mua một căn nhà ở ngõ cụt
để làm tư dinh. Sau giờ làm việc, Ngài về làm vườn, trồng rau, xin đầu cá người
ta vứt bỏ để nấu ăn. Nhiều người không tán đồng hành động của vị giám mục. Họ
nói: “Vua thì phải sống cho ra Vua, Chúa thì phải sống cho ra Chúa, Giám mục
thì phải sống cho ra Giám mục”. Nguyên là một thạc sĩ toán học, Đức Cha trả
lời: “Không phải là kết toán làm thành bài toán. Bài toán chúng ta là phải trừ,
chia và nhân: phải bớt tiêu xài xa hoa, để chia sẻ với những người nghèo khó và
nhân thêm niềm hy vọng để sống xứng đáng với họ”.
4. LỐI SỐNG
BÁC ÁI CÓ GIÁ TRỊ THUYẾT PHỤC HƠN VẠN BÀI GIẢNG:
Một hôm thánh Phanxicô rủ một thầy dòng đi theo
mình như sau: “Chiều nay thầy trò mình sẽ cùng đi ra ngoài giảng đạo nhé”. Sau
một buổi chiều đi rảo chung quanh các phố xá, khu xóm, làng mạc, hai thầy trò
quay trở về tu viện. Khi về tới nhà, thánh nhân liền ngồi xuống ghế và nói: “Tạ
ơn Chúa”, rồi tiếp tục giữ im lặng. Thầy dòng đi theo ngài liền hỏi: “Thưa thầy,
thầy nói mình đi ra ngoài giảng đạo, mà thực tế con đâu thấy cha giảng gì cho
ai đâu?” thánh nhân mìm cười trả lời: “Chính cách đi đứng tử tế, nói năng chào hỏi
những người gặp ngoài đường, cách cư xử bác ái chân thành và ân cần giúp đỡ tha
nhân của thầy trò chúng ta đã là một bài giảng hùng hồn, và có sức lay động lòng
người rồi đó con”.
Việt Nam có câu: Lời nói hương bay, gương bày lôi kéo”.
Nghĩa là rao giảng bằng lời nói mới chỉ giống như hương thơm thoảng qua, còn
gương sáng bác ái mới làm cho người đời thán phục và tin vào lời chúng ta rao
giảng.
5. KHÔNG ĐƯỢC BÁNG BỔ CHÚA QUA ĐỜI SỐNG BẤT TOÀN CỦA MÌNH
Có một bà vợ thường xuyên càu nhàu về tình trạng
khô khan nguội lạnh của ông chồng. Hơn thế nữa, bà còn khinh ghét tất cả những
hình ảnh mà ông đã cho xâm trên thân mình.
Ngày kia, trong một cố gắng muốn cải thiện mối quan
hệ với vợ, ông đã quyết định xâm hình Chúa Giêsu thật to trên tấm lưng trần của
mình. Trở về nhà, ông hãnh diện giơ lưng ra cho vợ xem và hỏi: “Bà có biết ai
đây hay không?”. Rồi không đợi cho bà vợ trả lời, ông liền nói: “Chúa đấy”.
Thế nhưng, khi nhìn thấy hình xăm trên lưng của
chồng, bà vợ đùng đùng nổi giận và quát lớn:
“Thật là báng bổ. Chúa nào mà lại ở trên cái lưng trần
bẩn thỉu và nhớp nhúa của ông!”
Nói rồi, bà vơ lấy cái chổi và cứ thế quất vào tấm
lưng của ông khiến ông phải chạy trốn ra ngoài.
Sau trận đòn ấy, ông đến ngồi dưới một gốc cây và tấm
tức khóc. Ông khóc không phải vì trân đòn đau của bà vợ, mà vì ông nhận ra rằng
mình không có cách nào để làm vui lòng vợ luôn tự hào về tình trạng đạo đức của
mình.
3. SUY NIỆM:
1) PHÂN BIỆT HOA THẬT VỚI
HOA GIẢ:
Chuyện kể rằng: Ngày kia, nữ hoàng Shaba nghe biết
về sự khôn ngoan của vua Sa-lô-mon, muốn thử xem sự khôn ngoan của vua Salomon thực
hư ra sao, bà liền gửi tặng nhà vua hai bó hoa giống y như nhau, một bó gồm những
bông hoa thật và một bó gồm toàn hoa giả. Bấy giờ vua Sa-lô-mon liền truyền cho
lính gác mở cửa sổ, cho hàng đàn ong bướm quanh vùng có thể bay vào trong
phòng. Các chú ong và các nàng bướm kia liền đậu vào những bông hoa thật để hút
nhụy.
Các bông hoa giả có sắc đẹp nhưng lại thiếu mùi hương,
có hình ảnh nhưng lại không sự sống.
Cũng vậy, những kẻ đạo đức giả nói nhiều mà làm
chẳng được bao nhiêu, hoặc “họ chỉ nói mà không làm”. Họ mền yếu với bản thân nhưng
lại quá nghiêm khắc với thuộc hạ.
2) PHẢI TRÁNH LỐI SỐNG ĐẠO
ĐỨC GIẢ:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã quở
trách lối sống giả hình của các Kinh sư và Pharisiêu như sau:
- Họ nói mà không làm
- Họ bó những gánh nặng lên vai người khác, còn
chính họ không động ngón tay vào.
- Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ trông thấy
và khen ngợi.
- Họ ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng
ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi công cộng, và được người ta xưng
hô là Thầy (Rápbi).
Có lẽ khi nghe Đức Giêsu quỏ trách như trên, ai trong
chúng ta cũng ít nhiều cảm thấy xấu hổ vì nhận ra hình ảnh con người thật của mình
trong đó. Nếu không háo danh thì cũng thích khoa trương; Nếu không hay kể công
thì cũng muốn được khen gợi; Nếu không ích kỷ thì cũng nói nhiều làm ít…
3) PHẢI TRÁNH THÓI TỰ CAO TỰ ĐẠI:
Trong bài Tin Mừng
hôm nay, Đức Giê-su cũng
dạy chúng ta phải tránh thói muốn làm cha làm thầy thiên hạ của người Pha-ri-sêu
qua: “Đừng để ai gọi mình là thầy, là người lãnh đạo,
vì chỉ có một Thầy, một người lãnh đạo
tối cao là chính Người. Người cũng dạy chúng ta đừng gọi ai dưới
đất này là cha, vì chỉ có một Cha Chung trên trời là Thiên Chúa mà thôi”. Thế mà ở trường, các học sinh đều gọi người dạy mình là thầy
cô giáo, các tín hữu gọi các tu sĩ là thầy tu hay sư huynh. Rồi trong
gia đình, chúng ta cũng gọi đấng sinh thành ra mình là cha mẹ, tín hữu
gọi các linh mục tái sinh mình trong phép rửa tội là cha, gọi giám mục
là đức cha, đức giáo hoàng là đức thánh cha, và gọi nhiều vị là
Giáo phụ, Thượng phụ, Viện phụ… vậy phải chăng các tín hữu chúng ta
đã làm sai lời Chúa dạy ?
Thực ra, chắc một
điều là Đức Giê-su không phá bỏ cơ cấu của Hội Thánh. Người cũng không
muốn loại bỏ mọi phẩm trật và quyền hành là những điều kiện cần
để duy trì cộng đoàn. Do đó, ngay từ thời sơ khai, Hội thánh đã không
hiểu câu Lời Chúa nói trên theo nghĩa đen, thánh Phao-lô luôn ý thức
mình là cha của các tín hữu và gọi họ là con (x. 1 Cr 4, 14-17; Gl 4,
19). Trong Hội Thánh cũng có những chức vụ như
thầy dạy (x. Cv 13, 1), lãnh đạo (x. Cv 15, 22).
Như vậy, qua câu này,
Đức Giê-su chỉ muốn dạy chúng ta: hãy nhớ rằng mọi quyền bính đều bắt
nguồn từ Thiên Chúa và phải quy về cho vinh quang Thiên Chúa. Nếu có
ai đang làm thầy dạy người khác, làm người lãnh đạo cộng đoàn, là
do họ đã được Đức Giê-su chia sẻ quyền làm Thầy và làm lãnh đạo của Người.
Nếu cha mẹ được con cái gọi là cha mẹ, là do họ đã được tham phần vào
quyền làm Cha của Thiên Chúa. Nên dù chúng ta đang giữ bất cứ vai trò
lãnh đạo nào trong Hội Thánh, chúng ta cũng cần có tinh thần khiêm hạ như
lời hôm nay: “Còn tất cả đều là anh em với nhau, là con một Cha trên
trời” (Mt 23,
8).
4) MÔN
ĐỆ CỦA CHÚA PHẢI TRÁNH ĐIỀU GÌ VÀ PHẢI LÀM GÌ ?
Qua bài Tin mừng này Chúa
muốn dạy ta học tập nơi Người mấy điều sau:
+ Lời nói phải đi đôi với việc làm: Đức Giê-su không cấm
các kinh sư giảng dạy Lời Chúa, cũng không cấm người Pha-ri-sêu giữ Luật
Mô-sê. Vì nếu họ không giảng dạy thì làm sao dân chúng có thể nghe,
hiểu và yêu mến Lời Chúa, như người ta thường nói: “Vô tri bất mộ”.
Nếu họ không tuân giữ Luật Mô-sê thì họ đâu còn giữ đạo của Thiên
Chúa. Điều Đức Giê-su muốn các mục tử của Người là phải tránh “nói
mà không làm”, “tránh đốc thúc người ta làm còn mình chỉ khoanh tay
đứng nhìn”. Chúng ta cần thực hành lời Đức Giám Mục chủ lễ phong chức linh
mục nhắn nhủ các tân chức như sau: “Con hãy TIN điều con đọc. DẠY điều con
tin và THI HÀNH điều con dạy”.
+ Tránh thói đạo đức giả hình bề ngoài: Đức Giê-su đã nêu rõ các
thói xấu của các kinh sư và người Pha-ri-sêu cần tránh là: “Làm mọi
việc cố ý cho người ta thấy”. Nên nhớ rằng: “Hữu xạ tự nhiên hương!”:
nếu mình thật sự đạo đức thì tự nhiên người khác sẽ biết, mà không
cần phải nói ra, phải phô trương công đức trước mặt người đời để cho
người ta khen. Chỉ những ai không có thực trong lòng, mới tìm cách phô
trương ra bề ngoài như người ta thường nói: “Thùng rỗng kêu to” và
“Dốt hay nói chữ”.
+ Tránh thái độ tự cao tự mãn: Đức Giê-su cũng kêu gọi
các tín hữu phải tránh thái độ của các kinh sư và người Pha-ri-sêu như : “Ưa
ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa
được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi
là “ráp-bi”, tránh khinh dể những ai thua kém mình. Nên học nơi Đức
Giê-su sự “hiền lành và khiêm nhường” trong lòng : “Hãy mang lấy ách của tôi và
hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11, 29). Phải
tránh thói tự cao vì : “Cao nhân tất hữu cao nhân trị”.
4. THẢO LUẬN:
1) Thánh
Phao-lô nói: “Anh em hãy noi gương tôi, như tôi đã noi gương Đức Ki-tô”.
Người còn kể ra trăm ngàn nỗi đau khổ ngài đã phải chịu như bị đánh
đòi, bị đắm tàu, đói khát, rét mướt, trần trụi… Như vậy phải chăng
Phao-lô là một con người phô trương tự mãn? 2) Ngày nay chúng ta có nên
gọi các người dạy học là “thày, cô”, gọi hai đấng sinh thành là “bố, mẹ”,
gọi linh mục sinh ra các tín hữu trong phép rửa tội là “cha” hay không?
3) Trong một bữa tiệc đông quan khách, một người địa vị cao nhất được
chủ tiệc mời ngồi vào bàn tiệc danh dự thì có nên tự ý đến ngồi tại
bàn cuối để tỏ ra mình khiêm nhường không? Tại sao?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Khi đến với nhau, chúng
con thường mang những mặt nạ vì sợ kẻ khác thấy rõ sự thật về
mình. Chúng con muốn giữ uy tín cho mình, dù đó chỉ là chiếc mặt
nạ giả dối. Khi đến với Chúa, chúng con cũng thường mang những mặt
nạ là làm những việc đạo đức bề ngoài để che giấu sự trống rỗng trong
tâm hồn. Có khi môi miệng chúng con đang đọc kinh, mà lòng chúng con lại ở
xa Chúa. Chúng con cũng thường ngắm mình trong gương, tự ru ngủ và
đánh lừa mình về những ưu điểm mà thực ra chúng con không có, mà chỉ là
sản phẩm do sự tưởng tượng. Xin giúp chúng con biết cởi bỏ mọi thứ mặt
nạ đã ăn sâu vào da thịt chúng con, để chúng con thôi đánh lừa người
khác, đánh lừa Chúa, và đánh lừa ngay cả bản thân mình.
- LẠY CHÚA. Nhiều lần chúng con đã tranh
giành địa vị với người khác. Chúng con bực tức khi thấy ai đó nhiều
ưu điểm hơn chúng con, tài giỏi và thành công hơn chúng con. Chúng con
hay dèm pha nói hành kẻ vắng mặt mà chúng con không ưa nhằm hạ uy tín
của họ. Chúng con thường hay khoe khoang phóng đại những thành tích
của chúng con. Xin giúp chúng con biết noi gương Chúa: luôn sống khiêm
hạ và vị tha bác ái. Xin đừng để chúng con rơi vào các thói hư của
các kinh sư và người Pha-ri-sêu, đã bị Chúa khiển trách là giả hình,
ích kỷ và kiêu căng. Xin cho chúng con luôn biết quan tâm phục vụ tha
nhân noi gương Chúa và Mẹ Ma-ri-a xưa
X) HIỆP CÙNG MẸ
MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM