Suy Niệm Lời
Chúa Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm A
YÊU THƯƠNG LÀ GIỚI RĂN THỨ
NHẤT
Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân không
thể tách rời nhau. Mạc khải Kitô giáo khẳng định rằng tương quan đích thực với
Thiên Chúa Cha khi giải thoát chúng ta khỏi mọi tha hóa, giúp cho chúng ta hoàn
toàn có thể mở ra với những người anh em chúng ta. Chính vì thế, hai giới luật
đứng đầu của Luật Mô sê nền tảng của Luật Kitô giáo, vẫn không thể tách rời
nhau.
Sách Xuất hành 22, 20-26
Luật Mô sê có mục đích
diễn tả những đòi hỏi nội tâm của con người được giải thoát khỏi ách nô lệ,
nghĩa là khỏi các tha hóa giam hãm nó trong chính mình cũng như trong ách nô lệ
bên ngoài. Bộ luật tôn giáo đó diễn tả trên bình diện con người cách hành xử của
chính Thiên Chúa.
Thánh Vịnh 17
Đấng Thiên Chúa hùng
mạnh đã giải thoát Vua của Ngài khỏi những nguy hiểm đe dọa. Vua muốn tạ ơn
Ngài bằng cách làm cho sự công chính ngự trị trên toàn thế giới. Nhờ đó mà mọi
dân tộc sẽ có thể khám phá ra Chúa.
Thư 1 Tê-xa-lô-ni-ca 1, 5c-10
Qua thái độ đối với các
tín hữu của mình, Thánh Phao lô đã cố gắng phản ảnh Tình yêu của Thiên Chúa.
Ngài ao ước dân thành Tê-xa-lô-ni-ca bắt chước Ngài mà trở nên gương mẫu của
lòng tin và tình yêu cho tất cả những người chung quanh. Được cứu thoát khỏi
những bụt thần tha hóa, và quay về với Thiên Chúa đích thật, họ sẽ làm việc cho
Nước Chúa trị đến, nơi họ sẽ được ban cho sự sống đời đời.
Tin mừng: Mt 22: 34-40
NGỮ CẢNH
Đoạn Tin mừng nầy nằm
trong ngữ cảnh những cuộc xung đột giữa Chúa Giêsu và các địch thủ của Ngài.
Sau những vấn nạn về nộp thuế cho Hoàng đế (cc.15-22), vấn đề kẻ chết sống lại
(cc 23-33), là những câu hỏi về giới răn lớn nhất (cc 34-40), và sau cùng là
vấn đề Con Vua Đa vít (cc 41-46). Tất cả đều là những đề tài được tranh luận
nhiều nhất trong thời Chúa Giêsu.
Có thể đọc đoạn tin mừng
theo bố cục sau đây:
1. Nhập đề: hoàn cảnh
(34)
2. Câu hỏi: điều răn nào
trọng nhất (35-36)
3. Câu trả lời của Chúa
Giêsu (37-40)
TÌM HIỂU
Những người Pharisêu họp
nhau lại: Kiểu nói được dùng ở
đây lấy lại nguyên văn kiểu nói dùng trong Tv 2, 2: “Vua Chúa trần gian dấy
binh khởi nghĩa, vương hầu liên minh một khối (= “tụ họp lại một
chỗ”) chống lại Đức Gia vê và Đức Kitô của Người. (x. Mt 26, 3).
Qua đó, Mt ngụ ý rằng những cuộc tranh luận khởi động cuộc đối đầu quyết liệt
sẽ đưa Chúa Giêsu đến thập giá.
Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm
đều thuật lại biến cố nầy nhưng mỗi tác giả theo hướng riêng của mình: trong
Mt, thầy thông luật hỏi Chúa Giêsu với ý xấu (x. 19, 3;22, 15.18). Trái lại trong
Mc, viên kí lục có cảm tình với Chúa Giêsu, và Ngài khen anh ta vì trả lời
đúng. Cũng thế vị tiến sĩ luật trong Lc.
Để thử Người: Mt cũng dùng động từ nầy ở câu 22, 18 về vấn
đề nộp thuế cho hoàng đế. Rõ ràng trong cả đoạn dài, đối thủ luôn luôn dùng cạm
bẫy để đối đầu với Chúa Giêsu.
Ngươi phải yêu mến Đức
Chúa: Đây không phải là việc
đơn giản hóa lề luật bằng cách loại bỏ những điều phụ thuộc, mà là nhắc lại ý
nghĩa của các giới răn, và cho thấy là chúng bắt nguồn từ ý định tối cao của
Thiên Chúa. Tình yêu phải toàn diện (hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn),
nghĩa là phải động viên toàn bộ con người để yêu thương.
Đó là điều răn quan
trọng nhất và điều răn thứ nhất: Từ “và” có nghĩa giải thích: giới răn nầy đứng đầu tất cả
vì nó quan trọng nhất xét về nội dung. Từ “thứ nhất” có nghĩa là đứng
đầu vì nó mang lại ý nghĩa đích thực cho tất cả các giới răn khác. “Còn điều
răn thứ hai”: không có nghĩa là thuộc vào hạng thứ yếu, nhưng: cũng quan
trọng như giới răn thứ nhất. Giới răn thứ hai không thể so sánh, tương tự hay
đồng nhất với giới răn thứ nhất, song là ngang hàng xét về tầm quan trọng: yêu
mến tha nhân cũng khẩn thiết như yêu mến Thiên Chúa.
Tất cả Luật Môsê và các
sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy: Chúa Giêsu luôn đứng trong truyền thống Lề
luật của Do thái giáo. Cả hai đều đã hiện diện trong Lề luật, tầm quan trọng
của chúng dựa trên sự kiện chúng tóm kết tất cả toàn bộ sách Thánh, Ngài chỉ
tái giải thích bằng cách cho thấy ý nghĩa thâm thuý của chúng (x.Rm 13, 9).
Theo
truyền thống Hội đường, Lề luật gồm 613 giới luật tích cực, trong đó có 365
điều cấm và 248 điều buộc. Từ lâu người ta đã cố gắng tổng hợp chúng lại và đề
ra những đường nét chính yếu, nhưng không thành công vì không vượt qua được
tính cách tỉ mỉ quá độ của nền đạo đức do thái giáo. Do đó tính cách độc đáo
của trình thuật trên không nằm trong quan niệm tình yêu đối với Thiên Chúa và
tha nhân mà CƯ và Do thái giáo đều biết rất rõ, nhưng trong việc chúng được đưa
lại gần nhau và chổ đứng tối thượng mà Chúa Giêsu gán cho bảng “lược tóm” Lề
Luật.
SỨ ĐIỆP
Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân
Những người Pha-ri-sêu một lần nữa bàn tính gài bẫy Chúa Giêsu.
Một người trong họ đặt cho Ngài câu hỏi: “Thưa Thầy, trong lề luật đâu là
giới răn thứ nhất?” Trong Lề luật, họ chỉ thấy điều được phép và
điều cấm đoán. Đối với họ, ưu tiên số một là tuân giữ nhiệm
nhặt 613 điều luật Mô sê , và họ khinh bĩ những ai không tuân giữ
luật đó.
Chúa Giêsu không nhìn mọi sự như thế. Đối với Ngài, điều quan
trọng nhất là tình yêu tuyệt đối đốivới Cha
và ước muốn cứu độ mọi người. Dĩ nhiên Ngài cũng để ý đến những điều được phép
và những điều cấm làm; nhưng Đức Kitô muốn giúp chúng ta đi xa hơn. Ngài hướng
chúng ta đến điều cốt yếu; đó là giới răn thứ nhất: “Ngươi hãy yêu mến Chúa
là Thiên Chúa ngươi”. Khi đã hiểu được điều đó, người ta không
còn tự giới hạn vào những gì cho phép hay cấm đoán, mà sẽ nỗ lực, làm hết sức
mình để thực hiện. Tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa là một ưu tiên
tuyệt đối soi sáng cho toàn thể cuộc sống chúng ta.
Rồi đến giới răn thứ hai
cũng giống giới răn thứ nhất: “Ngươi hãy yêu mến đòng loại như chính mình
ngươi”. Thật vậy, nếu chúng ta yêu mến Thiên Chúa, chúng ta cũng sẽ khám
phá tình yêu mà Người dành cho từng người trong anh em chúng ta. Ngài là một
người Cha yêu thương tất cả con cái mình. Và khi những đứa con nầy làm điều
xấu, tình yêu của người Cha bị tổn thương nơi Ngài. Chính vì lẽ đó mà Ngài đòi
chúng ta phải yêu thương nhau như anh em hoặc đúng hơn như Ngài đã yêu thương
chúng ta. Chúng ta không thể nói rằng mình yêu Thiên Chúa mà còn giận dữ với
một ai đó. Vì thế phải mau mắn có những cử chỉ giải hòa và đón nhận người khác.
Ngài mai, có thể là quá trễ.
Tình yêu của chúng ta
đối với người khác trước tiên phải tỏ ra trong lời nói và những gì chúng ta
viết. Chúng ta không tưởng tượng hết tất cả những thiệt hại có thể gây ra bởi
sự nói xấu và vu khống. Lời nói có thể làm tổn thương người khác nhiều hơn là
gậy gộc và gạch đá. Nên khuyến khích thay vì hạ giá người đã làm xấu hoặc có
những giới hạn.
Ai trong chúng ta cũng
đều biết rằng lời nói phát xuất từ tâm hồn. Chính từ đó sinh ra những ý tưởng
xấu xa, những phán đoán vội vã, những kết án không hồi lại được. Chúng ta đánh
giá một ai đó không xứng đáng cho chúng ta tin tưởng. Ước gì chúng ta có thói
quen suy nghĩ về điều tốt của những người chung quanh chúng ta! Có thể chúng ta
mắc phải sai lầm, nhưng bù lại chúng ta sẽ được nhiều ích lợi hơn. Bài tin mừng
hôm nay muốn giúp đỡ chúng ta thay đổi cách nhìn chúng ta về người khác. Thiên
Chúa hiện diện trong mỗi người, đặc biệt nơi những người bé nhỏ, bệnh tật, bị
xã hội loại trừ. Họ chiếm chỗ nhất trong trái tim Ngài và chúng ta chỉ có thể
yêu thương họ như Ngài.
Yêu thương người lân cận
khi nói và nghĩ tốt cho họ, đó là bước thứ nhất; bước nầy phải được thể hiện
bằng những hành vi cụ thể. Yêu thương theo cách của Đức Kitô, đó là chia sẻ, là
đón nhận, là trao ban. Chúng ta hiểu điều đó khi nhìn về thập giá của Đức Kitô.
Ngài đã trao ban cho đến cùng, đến hiến trọn thân mình. Chúa Thánh Thần hiện
diện để gợi hứng cho chúng ta sống tình yêu huynh đệ đó: tình yêu có thể diễn
tả bằng những hành vi rất đơn giản, một nụ cười huynh đệ, một sự khiêm nhường,
lắng nghe, chấp nhận quan điểm của người khác, một cố gắng để trở nên dễ thương
với người khó thương. Và chắc chắn, chúng ta không quên lời cầu nguyện vì nó
tạo nên một hệ thống liên đới kì diệu. Cầu nguyện cho người khác, đó cũng là
một cách yêu thương.
Một ngày kia, Chúa Giêsu
nói; “Hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là đấng trọn lành”.
Chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Tất cả những gì chúng ta
làm, tất cả những gì chúng ta tổ chức, phải luôn bởi tình yêu. Chính đó sẽ đem
lại ý nghĩa và mùi vị cho cuộc sống chúng ta. Làm sao có thể hoàn thiện như
Thiên Chúa? Chẳng bao giờ. Chỉ cần nhìn vào đời sống cụ thể của chúng ta để xác
tín, nhưng nó mang lại cho chúng ta một sứ điệp rất rõ ràng: “Ngươi không
được đối xử tệ bạc với người di cư ở trong nhà ngươi”.
Ngày hôm nay cũng thế,
từng đòan người di cư thuộc đủ mọi tầng lớp. Họ phải chạy trốn sự nghèo đói và
chiến tranh. Họ bị bỏ rơi trong những ổ chuột hoặc trong những trại tạm cư. Có
những người mà chúng ta thương nhiều với điều kiện là họ ở xa chúng ta. Thế
nhưng khi yêu thương một ai đó, họ muốn ở với mình. Dù sao, chính như thế mà
Thiên Chúa muốn ở với chúng ta.
“Hãy hoàn thiện như
Cha các con là đấng Hoàn thiện”. Làm sao có thể như thế được? Chúng ta phải
tiếp nhận lời mời gọi đó như một ánh sáng dẫn đường cho chúng ta, một chóp đỉnh
mà chúng ta phải hướng tới. Tin mừng ấy trình bày cho chúng ta như một động
năng không ngừng thúc đẩy chúng ta vươn lên và vượt qua chính mình. Yêu thương
Thiên Chúa và yêu thương tha nhân như Chúa Giêsu, chúng ta không bao giờ có thể
đạt đến mức hoàn thiện. Cũng gần giống như một cuộc leo núi chúng ta phải tiếp
tục trong suốt cuộc sống chúng ta.
Điều kì diệu là Thiên
Chúa không phải là một quan án luôn tìm cách bắt bẻ chúng ta. Trước hết Người
là một người Cha không ngừng mời gọi chúng ta lớn lên trong tình yêu. Và dù
chúng ta làm gì, Ngài sẽ không bao giờ ngừng yêu thương và mời gọi chúng ta trở
về với Ngài. Đó là tin mừng mà Chúa nói với chúng ta hôm nay, một lời mời gọi
hãy yêu thương như Ngài đã yêu thương. Ngài đến gặp chúng ta trong mọi tình
huống của cuộc sống để chỉ cho chúng ta con đường đến sự Thánh thiện.
Tham dự lễ Chủ nhật là
cơ hội để đón nhận đấng là nguồn mạch của mọi tình yêu. Hôm nay, Chúa Giêsu nói
với chúng ta: “Điều mà anh em phải làm, trước tiên đó là tình yêu Thiên Chúa
và tha nhân”. Nhờ thực hành như thế mà sự hiện diện trong thánh
lễ, lời kinh và cả cuộc sống chúng ta hòa quyện vào nhau. Chúa hiện diện để
đồng hành với chúng ta và chỉ cho chúng ta con đường. Hơn bao giờ hết, chúng ta
có thể nói với Ngài: “Con tin vào Chúa, Lạy Chúa; Ngài là đời con, Ngài là
tình yêu của con”.
ĐÀO SÂU
MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
Xh 22, 20-26 Thiên Chúa buộc phải
yêu thương những người nghèo
Tv 18, 2 Con yêu mến Ngài, lạy
CHÚA là sức mạnh của con!
1Tx 1, 5-10 Loan báo Tin Mừng và
sám hối
Mt 22, 34-40 Yêu mến Thiên Chúa và
yêu thương tha nhân
1. HỎI: Các bài đọc được
liên kết theo chủ đề gì?
THƯA: MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI. Trọn Lề luật tóm lại trong
tình yêu Thiên Chúa và tha nhân (BTM). Lời ấy đã được chuẩn bị trong một đoạn
sách Xuất hành mời gọi yêu thương cụ thể người nước ngoài, góa phụ và kẻ mồ côi
(Bđ1). Thánh Phao-lô đã tỏ cho tín hữu biết phải sống giới răn yêu thương như
thế nào (Bđ2).
2. HỎI: Bối cảnh bài đọc
một (Xh 22, 20-26) như
thế nào?
THƯA: Sau biến cố năm 587, Thành Giê-ru-sa-lem bị
chiếm đóng, đền thờ bị phá hủy, thành phần ưu tú bị lưu đày sang Ba-by-lon, một
luồng tư tưởng hình thành nơi những người lưu đày Do thái để trả lời cho câu
hỏi: tại sau một tai họa dữ dằn như thế lại xảy ra. Có phải Thiên Chúa trừng
phạt dân bất trung không. Bài đọc một trích đoạn từ sách Xuất hành nằm trong
luồng tư tưởng đó.
3. HỎI: Nội dung bài đọc
một (Xh 22, 20-26) như
thế nào?
THƯA: Bài đọc một là
trích đoạn trong sách Xuất Hành được biên soạn từ nhiều truyền thống cổ thời
nói về một bộ luật rất xa xưa đề cập đến việc cho vay mượn tiền. Đó là một tiến
bộ lớn so với tục lệ đương thời vì cho thấy khuynh hướng kính trọng người
nghèo, bà góa, và kẻ mồ côi.
4. HỎI: Mô-sê có phải là
tác giả các bộ luật ghi trong sách Xuất Hành không?
THƯA: Người ta vẫn gán cho
Mô-sê là tác giả tất cả các bộ luật trong sách Xuất Hành. Thật ra, ông chỉ ban
hành những bộ luật tiên khởi, rồi dần dần trong suốt lịch sử của dân Ít-ra-ên
nhiều bộ luật mới thích nghi với các điều kiện xã hội mới đã được thêm vào và
đưa vào trong sách Xuất hành (x. Xh 22, 1).
5. HỎI: Đâu là Nền tảng
của Luật Ít-ra-ên?
THƯA: Lề luật dân Ít-ra-ên đặt nền tảng trên việc dân
Ít-ra-ên được giải thoát khỏi Ai cập. Thiên Chúa đã tự mạc khải là Đấng lắng
nghe và chạnh lòng trước những tiếng kêu la của đám dân bị áp bức nên Ngài đến
giải thoát họ. Người còn tiếp tục dùng Lề luật để bênh vực những kẻ bị khinh
bỉ. Vì thế, những lời dẫn vào Thập giới nhắc nhớ điều ấy: “Chính Ta là Chúa,
Thiên Chúa ngươi, đấng đã ngươi ra khỏi Ai cập, nhà nô lệ” (Xh 20, 2).
6. HỎI: Nền tảng ấy có
ảnh hưởng đến điều luật đang nói không?
THƯA: Có. Nếu Thiên Chúa đã giải cứu dân Người
chính là vì Người đã nghe tiếng kêu la của những kẻ bất hạnh và đã bảo vệ họ: “Ta
đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than
vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải
thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt
tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật” (Xh 3, 7). Và một khi họ đã
kinh nghiệm về việc bị khinh bỉ, thì họ sẽ dễ đặt mình vào vị trí của những kẻ
bị khinh bỉ để không tỏ ra nhẫn tâm đối với người khác.
7. HỎI : Đoạn sấm ngôn
Is 22, 20-26 nói gì về người lân cận?
THƯA: Đoạn ấy nói rằng người lân
cận là người cụ thể, người cần một sự giúp đỡ để thoát khỏi tình huống khó
khăn. Cần phải nhìn thấy, nghe thấy và chú ý đến họ. Lời sấm Is 22, 20 còn mời
gọi chúng ta hãy từ bỏ thái độ dửng dưng, và tránh sự hấp tấp vội vàng trong
việc làm điều tốt vì Nước Trời. Thiên Chúa truyền dạy đừng làm gì xấu cho những
người không thể tự bảo vệ: “Các ngươi đừng làm hại cô nhi quả phụ. Nếu các
ngươi hà hiếp những hẻ ấy.. Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ.”
8. HỎI: Vậy điều luật
muốn gửi đến sứ điệp gì?
THƯA: Thiên Chúa muốn dân của Ngài hãy đặt mình vào
hoàn cảnh của những kẻ khốn cùng để có thể cảm thông, thương xót và yêu thương
họ: “Hãy đặt mình vào vị trí của người nghèo, người vay mượn, bà góa, kẻ mồ
côi, đừng bạc đãi họ vì Ta nghe tiếng kêu la của họ”.
9. HỎI: Nội dung bài đọc
hai (1Tx 1, 5-10) như
thế nào?
THƯA: Thánh Phao-lô hết lời khen ngợi tín hữu
Tê-xa-lô-ni-ca vì họ đã tiếp nhận lời rao giảng Tin Mừng giữa bao gian truân
khốn khó, nhưng đã kiên cường sống Tin Mừng ấy đến nỗi họ trở thành gương mẫu
cho nhiều nơi khác noi theo.
10. HỎI: Bối cảnh bài
tin mừng (Mt 22, 34-40) như thế nào?
THƯA: Chúng ta đang ở vào giai đoạn cuối cùng
trong cuộc sống trần thế của Đức Giê-su, từ cuộc khải hoàn vào Giê-ru-sa-lem (21,
1-11) đến cuộc Khổ nạn của Ngài (ch. 22-27). Các cuộc tranh luận diễn ra giữa
Đức Giê-su và các lãnh đạo tôn giáo. Họ đặt cho Ngài ba vấn đề để tìm cách bắt
Ngài. Đó là vấn đề nộp thuế cho Xê-da (22, 15-21), hai là về sự kẻ chết sống
lại (22, 23-33) và ba là lề luật quan trọng nhất (22, 34-40). Có 3 ý chính: 1)
Hoàn cảnh cuộc tranh luận (22, 34); 2) Câu hỏi về điều răn trọng nhất (22,
35-36); 3) Câu trả lời của Đức Giê-su (22, 37-40).
11. HỎI: Bầu khí bài Tin
mừng xem ra có vẽ căng thẳng và đối kháng?
THƯA: Đúng là như thế. Đức Giê-su
đang đối đầu với các tiến sĩ Luật, những nhà chuyên môn dạy và cắt nghĩa Thánh
Kinh. Lẽ ra họ phải là những người gương mẫu, thì họ lại là những người mưu
tính gian trá và muốn gài bẫy Đức Giê-su. Còn Đức Giê-su, dù biết hết mọi điều
ấy, Ngài vẫn không nặng lời trách cứ, mà chỉ nhắc lại giới răn yêu thương Thiên
Chúa và tha nhân. Ngài không thêm điều gì mới, nhưng cho biết đâu là căn bản
của giới luật ấy.
12. HỎI: Lề luật nói gì
về các giới răn ấy?
THƯA: Sách Luật cũng như sách các Tiên tri liên kết chặt chẽ hai
giới răn ấy. Trong bản Mười điều răn, giới răn về cách sống với Thiên Chúa đi
trước các giới răn dạy về cách đối xử với con người. Còn các tiên tri luôn dạy
phải yêu thương người như là cách thực hành giới răn yêu thương Thiên Chúa, thí
dụ như I-sai-a nói: “Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao:
mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức,
đập tan mọi gông cùm?Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những
người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không
ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?” (Is 58, 6).
13. HỎI: Câu hỏi của
người Pha-ri-sêu có khó không?
THƯA: Đó là một câu hỏi khó, vì người Do thái đang phải đối đầu với mạng
lưới Lề luật chằng chịt gồm 613 điều: 248 lệnh truyền và 365 lệnh cấm. Họ hoang
mang vì không biết đâu là luật quan trọng nhất để tuân giữ.
14. HỎI: Đức Giê-su đã
trả lời như thế nào?
THƯA: Câu trà lời của Đức Giê-su đưa ra hai điều quan trọng: một là dạy
phải coi giới răn yêu thương người cũng quan trọng như giới răn yêu mến Thiên
Chúa, tức là nối kết hai điều răn với nhau và dành cho chúng vị trí cao nhất.
Hai là toàn bộ Lề Luật Cựu Ước đều quy về hai giới răn ấy, có nghĩa là hai giới
răn này diễn tả trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa trong Kinh Thánh. Như thế, không
những chỉ 613 điều luật, mà toàn bộ lời dạy Cựu Ước đều nhằm phát triển lòng
mến Chúa yêu người.
15. HỎI: Như thế phải
yêu mến tha nhân như yêu mến Thiên Chúa?
THƯA: Đúng thế, tha nhân cũng phải được yêu mến “hết
lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”như yêu mến Thiên Chúa. Phải vận dụng
tất cả bản thân mà yêu mến họ như yêu mến Thiên Chúa.
16. HỎI: Qua câu trả lời
ấy, Đức Giê-su dạy điều gì?
THƯA: Trước hết Đức Giê-su mời gọi các thính giả của
Ngài thoát ra khỏi tinh thần vị luật: đừng mất giờ tìm kiếm giới răn quan trọng
nhất, vì đối với Thiên Chúa, người ta không còn ở trong phạm vi tính toán nữa,
mà vào phạm vi ân sủng.
17. HỎI: Rồi kế đến?
THƯA: Kế đến, Đức Giê-su cảnh giác người
Pha-ri-sêu. Thiên Chúa ban lề luật như con đường tự do và sự sống, nhưng dễ bị
người ta biến thành ách nô lệ và đôi khi trở thành con đường đưa đến sự chết.
18. HỎI: Lời Chúa hôm nay
trình bày cho chúng ta con đường nên thánh nào?
THƯA: Đức Giê-su trình bày một
tiến trình thánh hóa nội tâm và không vị luật. Ngòai ra, Ngài chờ đợi chúng ta
một sự công chính hóa bằng đức tin chứ không chỉ bằng việc làm
19. HỎI: Có thể yêu thương
Thiên Chúa bằng tình yêu tha nhân không?
THƯA: Đó là sự khó khăn mà ai
trong chúng ta đều vấp phải. Thật vậy, không dễ yêu thương Thiên Chúa một cách
cụ thể vì chúng ta không thể tiếp xúc cụ thể, không thể nhìn thấy Ngài. Nhất là
không dễ dàng yêu thương Thiên Chúa hơn cha mẹ, anh chị em, bạn hữu của chúng
ta. Nhưng Đức Giê-su xác nhận với chúng ta rằng tình yêu người lân cận là dấu
chỉ tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu tha nhân là cách diễn tả cụ thể của tình yêu
Thiên Chúa như sau này thánh Gioan sẽ nói rõ: không thể có lòng mến Chúa vô
hình nếu không thương người hữu hình (x.1Ga 4, 20).
20. HỎI: Có thể đáp trả
tình yêu Thiên Chúa không nếu chúng ta bị nô lệ bởi các đam mê lệch lạc hoặc
của cải trần gian?
THƯA: Chắc chắn là không. Nếu như
trái tim chúng ta không được tự do, chúng ta không thể yêu thương Chúa, phụng
sự Ngài và yêu mến anh em theo thần khí của Đức Giê-su Kitô được. Lòng gắn bó
với của cải trần gian, tình yêu bệnh hoạn và ích kỉ và nhiều đam mê xấu xa khác
là những chướng ngại không cho phép chúng ta cảm nhận và đáp trả tình yêu của
Thiên Chúa.
21. HỎI: Như thế, Đức
Giê-su cho thấy cung cách Cứu thế của Ngài?
THƯA: Đúng thế, và đó là con
đường cứu thế bằng tình yêu mà Ngài lược tóm trong giới luật yêu thương, ở đó
Lề luật đạt tới đỉnh điểm mong đợi. Đức Giê-su không tách rời tình yêu Thiên
Chúa với tình yêu tha nhân, nhưng giới răn thứ hai được trình bày như là bằng
chứng và xác định giới răn thứ nhất.
22. HỎI: Theo giáo huấn của
Đức Giê-su, thì chúng ta phải sống người Kitô hữu tốt lành như thế nào?
THƯA: Bằng cách sống như anh em,
có một tình yêu cụ thể đới với tha nhân chứ không giới hạn trong lời nói hay
trong tư tưởng. Đó là cách mà Đức Giê-su đã chỉ dạy để làm chứng tình yêu đối
với Thiên Chúa trong thế gian. Đức Kitô mạc khải cho chúng ta một điều có giá
trị quan trọng về Thiên Chúa và về con người: đối với Thiên Chúa, điều quan
trọng không phải là “làm cái gì”, mà là “làm như thế nào” trong nội tâm và
trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa và tha nhân. Rồi sau đó, mới đến
“Phải làm gì ?”.
GLCG 1822 1723. Đức mến là nhân đức đối
thần, nhờ đó, chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự vì chính Chúa, và vì
yêu mến Thiên Chúa, chúng ta yêu mến người thân cận như chính mình. 1823 1970. Đức
Giê-su đặt đức mến làm lời truyền dạy mới (Ga 13, 34). Khi yêu
mến những kẻ thuộc về Người "đến cùng" (Ga 13, 1), Người biểu lộ tình
yêu Người đã nhận được từ Chúa Cha. Khi yêu thương nhau, các môn đệ noi gương
Đức Giê-su, Đấng đã yêu mến họ. Vì thế, Đức Giê-su nói: "Chúa Cha đã yêu
mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở trong tình yêu
của Thầy" (Ga 15, 9). “Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương
nhau, như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 15, 12). 1824 735.’Đức
mến là hoa trái của Thánh Thần và là sự viên mãn của lề luật. Yêu mến là
giữ các lệnh truyền của Thiên Chúa và của Đức Ki-tô: "Hãy
ở trong tình thương của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, thì anh em
sẽ ở trong tình thương của Thầy" (Ga 15, 9-10) ( x. Mt 22, 40; Rm 13,
8-10).
Lm. Paul Nguyễn văn Đông