SUY NIỆM LỜI
CHÚA CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN NĂM A
KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO
ĐỂ CHU TOÀN SỨ VỤ RA ĐI THÂU NẠP MÔN ĐỆ
CHO CHÚA
I.
HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 28, 16-20
(16) Mười một môn đệ đi
tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến.
(17) Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi.
c 18) Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn
quyền trên trời dưới đất” (19) Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân
trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần. (20) Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền
cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.
2. Ý CHÍNH: LỆNH CUỐI CÙNG CỦA CHÚA PHỤC
SINH:
Chúa Giê-su Phục Sinh
hiện ra lần cuối cùng với các môn đệ trên một ngọn núi tại Ga-li-lê.
Trước khi lên trời, Người đã trao cho các ông sứ mệnh đi và làm cho
muôn dân trở thành môn đệ Người, làm phép rửa tội cho những ai có đức
tin nhân Danh Thiên Chúa Ba Ngôi. Người cũng truyền cho các ông sứ mệnh
dạy các tín hữu phải giữ mọi huấn lệnh của Người và còn hứa sẽ
ở cùng các ông mọi ngày cho đến tận thế.
3. CHÚ THÍCH:
- C 16-17: +
Mười một môn đệ: Nhóm Mười Hai đã bị mất Giu-đa phản bội
nên chỉ còn mười một ông (x. Mt 27, 5). + Đi tới miền Ga-li-lê:
Theo lời nhắn của hai thiên thần qua hai phụ nữ và lời của Chúa Phục
Sinh nhắc lại vào buổi sáng Ngày Thứ Nhất trong tuần (x. Mt 28, 7. 10),
các môn đệ đã quay trở lại miền Ga-li-lê nhưng thiếu mất Giu-đa.
Ga-li-lê là địa điểm truyền giáo chủ yếu của Đức Giê-su trong thời
gian rao giảng Tin mừng. Qua việc ra lệnh cho các môn đệ trở về
Ga-li-lê, Tin mừng Mát-thêu muốn nhấn mạnh sự đồng nhất giữa Đức
Giê-su lịch sử, tức là khi Người còn sống và rao giảng Tin Mừng, với
Chúa Ki-tô của niềm tin, tức là sau khi Người đã từ cõi chết sống
lại. + Đến ngọn núi: Tin mừng Mát-thêu không xác định là quả
núi nào. Sách Công Vụ nói đó là núi Ô-liu (x. Cv 1, 12). Núi tượng
trưng cho nơi Thiên Chúa mặc khải cho các ngôn sứ thời Cựu Ước (x. Xh
3, 1-5; 1V 19, 8-14). Trong Tin mừng Mát-thêu, nhiều lần Đức Giê-su cũng
mặc khải những điều quan trọng trên núi. Chẳng hạn: Công bố Tám Mối
Phúc Thật trên một quả núi (x. Mt 5, 1), biến hình trước mặt ba môn
đệ thân tín trên núi cao (x. Mt 17, 1); ra lệnh cho các môn đệ đi rao
giảng Tin mừng phổ quát cho mọi dân tộc trên một ngọn núi (x. Mt 28, 16).
+
Khi thấy Người, các ông bái lạy: Ở đây các môn đệ đã biểu lộ
niềm tin vào Chúa Giê-su Phục Sinh qua thái độ bái lạy Người, giống
như các đạo sĩ đã sấp mình bái lạy Hài Nhi Cứu Thế (x. Mt 2, 2.8.11),
người phong cùi bái lạy xin Đức Giê-su chữa lành (x. Mt 14, 33), người
đàn bà xứ Ca-na-an bái lạy để xin Đức Giê-su chữa cho con gái bà
khỏi bị quỷ ám (x. Mt 15, 25). + Có mấy ông lại hoài nghi: Nói
đến có môn đệ còn hoài nghi sau khi các ông đã bái lạy Chúa Giê-su
xem ra khó hiểu. Thực ra, đến lúc này mọi môn đệ đều đã tin Chúa
Giê-su đã sống lại từ cõi chết và không ai còn hoài nghi gì nữa.
Nhưng trước đó, sự nghi ngờ đã xuất hiện nhiều lần trong các trình
thuật hiện ra khác, và mỗi lần sự hoài nghi đều được đánh tan bằng
một cách thức khác nhau. Chẳng hạn: Chúa Phục Sinh đã ăn một khúc cá
nướng trước mặt các ông (x. Lc 24, 41); Người thỏa mãn đòi hỏi được mắt
thấy tay sờ của Tô-ma và trách ông cứng lòng tin (x. Ga 20, 24). Ở đây,
Chúa Giê-su đánh tan sự hoài nghi của một vài môn đệ bằng lời khằng
định: Người đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất (x. Mt 28, 18).
Do đó, sự hòai nghi trong câu này ám chỉ sự hoài nghi của cộng đoàn
Hội thánh nói chung. Từ nay các tín hữu không được đòi “Thấy rồi
mới tin” như Tô-ma, nhưng phải dựa vào Lời Chúa và quyền năng của
Người để củng cố đức tin như Lời Chúa phán: “Phúc thay những người
không thấy mà tin !” (Ga 20, 29).
- C 18-19: +
Đức Giê-su đến gần: Đến gần là một hành động tỏ ra sự ưu ái
đặc biệt, lấp đầy khoảng cách giữa Thiên quốc và trần gian mà chỉ
Đức Giê-su Phục Sinh mới làm được. + Thầy đã được trao toàn quyền trên
trời dưới đất: Khởi đầu rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã từ
chối nhận quyền Sa-tan hứa ban mọi nước thế gian (x. Mt 4, 8-10), thì
giờ đây Người đã được Thiên Chúa ban cho tất cả. Thế là ứng nghiệm
lời tuyên sấm trong sách Đa-ni-en về Con Người: “Người được ban tặng
quyền bính, vinh dự, vương triều. Tất cả các dân các nước và các
tiếng nói đều phải phụng sự Người” (Đn 7, 14), và quyền bính của
Người còn bao trùm cả trời đất (x. Cv 13, 33). + Anh em hãy đi và làm cho
muôn dân trở thành môn đệ: Các môn đệ đại diện Hội Thánh nhận
bài sai của Chúa Giê-su đi chinh phục thế giới. Từ nay Hội thánh phải
nhân Danh Chúa Giê-su mà làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Người,
trước tiên là những người Do thái (x. Mt 10, 5-6; 15, 24), rồi đến mọi
dân trên thế giới (x. Mt 8, 11; 21, 41). + Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần: Ngòai việc rao giảng Tin
Mừng để người ta tin theo, các môn đệ còn ban phép rửa nhân Danh Chúa
Ba Ngôi để tái sinh họ làm con Thiên Chúa Ba Ngôi. + Dạy bảo họ tuân giữ mọi
điều Thầy đã truyền: Công việc đào tạo người ta nên môn đệ
còn phải được tiếp tục sau phép rửa, bằng lời giảng dạy, cho tới
khi Hội thánh đạt tới sự viên mãn của Đức Ki-tô (x. Ep 1, 23). +
Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế: Chúa Ki-tô Phục
Sinh hứa sẽ hiện diện trong Hội Thánh để giúp Hội Thánh chu toàn sứ
mệnh rao giảng Tin Mừng cho đến đến khi Người lại đến vào ngày tận
thế. Câu này cho thấy Đức Giê-su chính là “Em-ma-nu-en”, nghĩa là
“Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Is 7, 14; Mt 1, 23).
4. HỎI ĐÁP:
- HỎI 1: Mười một môn đệ đã vâng lời Đức
Giê-su truyền đến Ga-li-lê (x. Mt 28, 10). Khi gặp Người, các ông đều
bái lạy, nhưng có mấy ông vẫn còn hoài nghi (17). Phải chăng thái độ
của các ông đã tỏ ra mâu thuẫn khi vừa bái lạy, lại vừa hoài nghi ?
ĐÁP:
Có hai ý kiến giải
thích về sự hoài nghi của một số môn đệ lúc đó như sau:
1.
Ý kiến thứ nhất: Ở đây các ông không hoài nghi việc Chúa đã
sống lại, nhưng hoài nghi không biết người đang tiến lại gần kia có
phải là Chúa Giê-su hay không. Giống như trường hợp Ma-ri-a Mác-đa-la
lầm tưởng Người là ông làm vườn (x. Ga 20, 15), hoặc như hai môn đệ
làng Em-mau tưởng Người là một lữ khách cùng đi trên đường với mình
(x. Lc 24, 15-16). Tuy nhiên lời giải thích này vẫn khó hiểu. Vì các
ông đã bái lạy tức là đã nhận ra Chúa Phục sinh rồi, thì tại sao
lại còn hoài nghi không biết có phải là Thầy hay không?
2.
Ý kiến thứ hai: Mát-thêu cần phải nói đến sự hoài nghi
trước khi các ông đạt được lòng tin đầy đủ. Vì không tường thuật các
cuộc hiện ra khác, nên không có cơ hội đề cập đến sự hoài nghi của
các môn đệ trước khi các ông hoàn toàn tin Thầy sống lại, như các Tin
Mừng khác đều có nói đến. Vì thế Mát-thêu đã phải đặt sự hoài
nghi vào lúc này, không phải đúng như thái độ của các ông khi ấy,
nhưng là của các ông trong một lúc nào đó trước khi các ông đạt tới
đức tin trọn vẹn. Như vậy, chúng ta có thể coi đây là như một sự
trục trặc về cách hành văn, chứ không mâu thuẫn về mặt tư tưởng.
- HỎI 2: So sánh lệnh truyền của Mát-thêu
với lệnh truyền của Chúa Giê-su trong sách Công Vụ Tông Đồ (x. Cv 1, 8),
có sự khác biệt về tính phổ quát của công cuộc truyền giáo và công
thức rửa tội: Nhân Danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Phải
chăng lời Đức Giê-su ra lệnh cho các môn đệ trong Tin Mừng Mát-thêu đã
được Hội Thánh sau này thêm vào để chứng minh cho giáo lý về mầu
nhiệm Một Chúa Ba Ngôi ?
ĐÁP:
Thực ra theo Lu-ca, tác
giả sách Công Vụ tông đồ thì Hội Thánh sơ khai đã phải trải qua nhiều
kinh nghiệm mới nhận thức hết ý nghĩa của lệnh truyền phổ quát là
đến với muôn dân. Rồi trong Công Vụ tông đồ chúng ta chỉ thấy nói tới
việc rửa tội “Nhân danh Đức Giê-su” (x. Cv 2, 38; 10, 48). Từ những nhận
định trên, chúng ta có thể quả quyết rằng: mệnh lệnh phổ quát đã
được Đức Giê-su ban bố, nhưng lệnh đó chỉ được sáng tỏ dần dần do ơn
soi dẫn của Thánh Thần (x. Ga 16, 12-13). Nhờ trải qua kinh nghiệm
sống, Hội Thánh đã dần nhận ra ý nghĩa của lệnh truyền phổ quát
đó. Đến khi Tin Mừng được soạn thảo, thánh Mattthêu đã dùng công thức
rửa tội nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, mà Hội
thánh được “Thần khí Sự Thật” dạy dỗ, đã đưa vào trong công thức
phụng vụ phép rửa, thay cho công thức rửa tội “nhân danh” Chúa Giê-su”
như sách Công Vụ thuật lại.
- HỎI 3: Sau khi truyền cho các môn đệ “Hãy
đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”, Đức Giê-su đòi các ông: “Dạy
bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (19-20). Phải
chăng Chúa muốn các ông hãy rửa tội cho người ta trước rồi mới dạy dỗ
sau?
ĐÁP:
- Công việc cứu thế
của Đức Giê-su được Tin Mừng Mát-thêu mô tả gồm có bốn việc mà
Người trao cho Hội Thánh thực hiện như sau:
Một là rao giảng Tin
Mừng về Nước Trời (x. Mt 4, 23; 7, 28-29).
Hai là chữa lành các bệnh
tật. Chẳng hạn: bệnh phong (x. Mt 8, 3), tê liệt (x. Mt 8, 6.13), cảm sốt
(x. Mt 8, 15), băng huyết (x. Mt 9, 20-22), phục sinh bé gái (x. Mt 9, 25),
chữa bệnh mù lòa (x. Mt 9, 29), và nhiều bệnh khác (x. Mt 15, 30-31)...
Ba là trừ quỷ. Chẳng
hạn: xua đuổi ma quỷ khỏi người bị nó ám (x. Mt 8, 16), trừ quỷ câm (x.
Mt 9, 32-33), bắt quỷ kinh phong phải xuất ra (x Mt 17, 15-18)…
Bốn là dạy dỗ. Hãy dạy
tân tòng tuân giữ mọi huấn lệnh của Chúa truyền (x. Mt 28, 20).
- Lời Chúa dạy nói trên chỉ
muốn diễn giải sứ mệnh “đi thâu nạp môn đệ khắp muôn dân” gồm hai
việc phải làm là rửa tội và giảng dạy, chứ không buộc phải theo thứ tự
trước sau giữa việc rửa tội và việc giảng dạy. Theo truyền thống từ thời sơ
khai, Hội Thánh đã luôn giảng dạy trước để chuẩn bị tâm hồn dự tòng
rồi khi họ hiểu biết và tuyên xưng đức tin mới ban phép rửa tội dìm mình trong
nước cho họ như Phi-líp-phê đã làm cho viên thái giám được thuật lại trong sách
Công vụ tông đồ (x. Cv 8, 26-40). Sách Đi-đa-kê đã chỉ dẫn việc cử hành
phụng vụ phép rửa tội như sau : “Sau khi đã nói tất cả những điều
đó, hãy rửa tội…” (Didaché 7, 1).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Thầy đã được trao toàn quyền
trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành
môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa con và Chúa
Thánh Thần” (Mt 28, 19).
2. CÂU CHUYỆN:
1) TRUYỀN
GIÁO LÀ THẮP SÁNG NGỌN LỬA TIN YÊU TRONG
LÒNG MỌI NGƯỜI:
Mẹ TÊ-RÊ-SA CAN-QUÝT-TA là
một nữ tu người An-ba-ni, được nhà dòng sai đến phục vụ người nghèo tại nước Ấn
Độ. Khi tận mắt chứng kiến rất nhiều người quá nghèo khổ, trải qua giờ phút hấp
hối trên lề đường, sau khi chết bị thiêu hủy như một con vật; bao gia đình phải
sống trong các túp lều ổ chuột... Mẹ đã chọn con đường tu hành bằng việc thực
thi tình thương cụ thể là tìm kiếm chăm sóc những người cô đơn nghèo khổ, bệnh
tật và bị bỏ rơi.
Một hôm, khi đi thăm một
ông lão sống cô đơn trong căn lều tồi tàn bẩn thỉu mà toàn bộ đồ đạc trong nhà
là một mớ hỗn độn. Ông ta lại có lối sống khép kín, không muốn trả lời những
lời hỏi thăm. Mẹ xin phép ông dọn dẹp căn lều cho sạch sẽ mà ông cũng làm
thinh. Trong lúc dọn dẹp, Mẹ thấy một cây đèn dầu bụi bám đen xì nằm ở góc nhà.
Sau khi được lau chùi, Mẹ liền kêu lên: “Ồ, cây đèn đẹp quá !”. Ông già nói: Đó
là cây đèn tôi đã tặng vợ tôi sau ngày cưới. Từ khi bà ấy qua đời, tôi cũng không
bao giờ đốt đèn lên nữa. Thấy ông đã bắt đầu cởi mở, Mẹ Tê-rê-sa liền đề nghị:
Thế ông có bằng lòng cho các chị em nữ tu mỗi ngày đều đến thăm và đốt đèn cho
ông không? Và ông đã đồng ý. Từ ngày đó, vào mỗi buổi chiều, các chị em nữ tu
đều thay nhau tới thăm, giúp ông dọn dẹp nhà cửa và nói chuyện với ông. Ngọn
đèn bắt đầu cháy sáng trong căn lều sạch sẽ ấm áp. Ông lão cũng trở nên vui vẻ
hơn. Ông bắt đầu đi ra ngoài nhà thăm hỏi hàng xóm, và nhiều người cũng đến viếng
thăm, khiến con tim của ông lão đã vui trở lại.
Mẹ Tê-rê-sa cứ miệt mài
phục vụ người nghèo: Mẹ lập ra những trung tâm đón tiếp những người hấp hối,
săn sóc giúp họ chết an lành và được chôn cất như một con người. Mẹ lập những
trại cô nhi nuôi trẻ mồ côi, xây những bệnh viện và trường học miễn phí. Số
người theo Mẹ ngày càng đông và Mẹ đã lập ra dòng Nữ Tử Thừa Sai Bác Ái chuyên
phục vụ người nghèo. Hiện nay dòng này đã có mặt trong 132 quốc gia và Mẹ đã được cả thế
giới biết đến. Mẹ được trao nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có giải Nobel
Hòa bình. Năm 1997, Mẹ qua đời, đã có 80 nguyên thủ quốc gia, trong đó có cả
phu nhân tổng thống Mỹ Bill Clinton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac
đã đến dự đám tang. Và nước Ấn Độ, tuyệt đại đa số dân theo Ấn giáo, vốn không
ưa gì đạo Công giáo, đã cho chôn cất Mẹ theo nghi thức quốc tang với hai mươi
mốt phát súng đại bác để tiễn đưa linh hồn Mẹ Tê-rê-sa về trời.
Mẹ Tê-rê-sa đã định nghĩa thế
nào là một nhà truyền giáo: "Đó là một tín hữu Ki-tô say mê Chúa Giêsu đến
độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến
Ngài". Mẹ Tê-rê-sa không những làm cho người ta nhận biết và yêu mến Chúa
Giê-su bằng việc nói về Chúa Giêsu, diễn tả khuôn mặt của Chúa Giê-su bằng cuộc
sống yêu thương phục vụ của mình. Như vậy, Mẹ Têrêxa chính là một nhà truyền
giáo vĩ đại trong thế kỷ 20, vì Mẹ đã biết thắp lên ngọn đèn cháy sáng tin yêu
giữa bóng đêm hưởng thụ lạc thú bất chính và thù hận chém giết nhau, Mẹ đã thắp
lên ngọn đèn giúp mọi người nhìn nhau là anh em, là con cùng một Cha Chung trên
trời là Thiên Chúa.
2) MỘT BÀI GIẢNG BIẾT ĐI
EN-BỚT SUÝT-DƠ (Enbert
Schweitser) vừa là một bác sĩ lừng danh lại vừa là một vị thừa sai
truyền giáo. Ông đã tình nguyện sang tận Phi Châu để truyền giáo. Tại
đây, ông đã dùng tài sản để xây dựng các bệnh viện miễn phí cho
người nghèo, rồi giới thiệu Thiên Chúa là tình thương cho bệnh nhân
cùng các thân nhân của họ qua việc tận tình chữa bệnh. Công việc bác
ái của ông đã được nhiều người biết đến và hết lời ca ngợi. Ông đã
được giải No-bel hòa bình vì đã có công đem lại hạnh phúc cho người
nghèo tại Phi Châu. Câu chuyện sau đây cho thấy tinh thần bác ái của
ông có một sức mạnh lớn lao, giống như một BÀI GIẢNG BIẾT ĐI như sau:
Vào một buổi chiều
nọ, người ta thấy một đám người rất đông tụ tập nơi nhà ga xe lửa
của thành phổ Chi-kê-gô (Chicago) Hoa kỳ, để đón chào một nhân vật
nổi tiếng, mới được nhận giải Nô-ben hòa bình năm 1952. Người vừa
bước xuống khỏi toa xe lửa là một người đàn ông cao lớn tóc húi cua,
trên khuôn mặt phúc hậu của ông có một chòm râu được cắt tỉa cẩn
thận. Bấy giờ các phóng viên mà một số nhân vật cao cấp của thành
phố đang đứng chờ ở gần cửa toa xe hạng nhất. Khi vị thượng khách
xuất hiện, các phóng viên liền bấm máy chụp liên hồi, đang khi đám
đông vỗ tay reo hò. Ông khách quý đã cười thật tươi và cúi đầu đáp
lễ mọi người. Còn các vị lãnh đạo thành phố thì dang rộng đôi tay
để chào đón người mới đươc giải thưởng Nô-ben hòa bình. Nhưng bỗng
nhiên, vị khách kia quay mặt nhìn về phía cuối sân ga và vội vã vượt
qua đám đông đứng vây quanh, tiến đến gần một người đàn bà lớn tuổi.
Bà này hai tay đang xách hai chiếc va-li khá nặng. Khi đến nơi, vị
khách quý mỉm cười với bà và đưa tay ra đỡ cho bà ta một chiếc
va-li, rồi hai người đi đến một chiếc xe buýt đậu gần đó. Sau khi
người đàn bà lên xe, ông không quên chúc bà thượng lộ bình an. Khi quay
trở lại đám đông đang đợi mình, ông nhỏ nhẹ nói: “Xin lỗi quí vị.
Tôi rất tiếc đã để quý vị phải chờ đợi”. Người đàn ông với cử chỉ
đẹp đó không ai khác hơn là bác sĩ EN-BỚT SUÝT-DƠ (Anbert Schweitser),
một nhà truyền giáo nổi tiếng, đã cống hiến cả cuộc đời phục vụ
những người nghèo khổ tại Phi Châu. Một thành viên trong ban tổ chức
cuộc tiếp đón chứng kiến hành động của Suýt-dơ ở sân ga hôm đó, đã
phát biểu cảm tưởng với các phóng viên rằng: “Đây là lần đầu tiên
trong đời, tôi đã được chứng kiến một bài giảng biết đi”.
3) GƯƠNG NHIỆT THÀNH TRUYỀN GIÁO CỦA MỘT VIÊN GIÁM
ĐỐC HÀN QUỐC:
Có một người Hàn quốc đã sang
Việt Nam mở một doanh nghiệp làm ăn kinh tế tai thủ đô Hà nội. Doanh nghiệp của
ông có 50 công nhân, trong đó cũng có mấy người Công giáo. Một hôm viên giám
đốc hỏi mấy người công nhân Công giáo : Các anh là đạo gốc, thế các anh đã
truyền giáo được cho người nào chưa ?” Họ trả lời rằng: “Chúng cháu giữ đạo còn
chưa xong, làm sao dám nghĩ đến việc truyền giáo cho ai khác được”. Bấy giờ ông
chủ Hàn quốc liền nói: “Thế là các cậu đã thua tôi rồi. Tôi chỉ là người tân
tòng theo đạo từ khi lập gia đình, và mới sang Việt Nam được 3 năm nay. Thế mà
tôi đã mời gọi được hai người Việt Nam học giáo lý để được gia nhập vào đạo công
giáo rồi đó”.
3. SUY NIỆM: ĐẾN VỚI MUÔN DÂN
1) LỆNH TRUYỀN CỦA CHÚA GIÊ-SU:
Hôm ấy, mười một môn
đệ Đức Giê-su đã trở về Ga-li-lê như Chúa Phục Sinh đã hẹn qua bà
Ma-ri-a Mác-đa-la (x. Mt 28, 10). Trong cuộc gặp gỡ đó, Đức Giê-su đã
nói với các môn đệ ba điều như sau:
-
Một là: Người đã được trao “Toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28, 18): Điều này
nhắc chúng ta nhớ lại khi Đức Giê-su bị cám dỗ, tên cám dỗ đã nói
với người rằng: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp
mình bái lạy tôi” (Mt 4, 9). Nhưng Người đã không theo lời xúi giục
của nó. Bây giờ, Chúa Cha đã ban cho Người chẳng những các nước thế
gian, mà còn có “toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28, 18).
-
Hai là: Người ra lệnh cho các môn đệ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn
dân trở thành môn đệ” (Mt 28, 19):
Trong thời gian giảng đạo, Đức Giê-su dạy các ông chỉ đi loan báo Tin
Mừng cho dân Ít-ra-en, vì đây là dân Chúa chọn có quyền ưu tiên (x. Mt
10, 5-7). Nhưng bên cạnh đó, Người cũng rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại
và làm phép lạ cứu giúp những ai đặt trọn niềm tin nơi Người. Chẳng
hạn: Viên đại đội trưởng ngoại giáo có đức tin mạnh đã được Người
chữa cho đầy tớ của ông khỏi bệnh tê liệt (x. Mt 8, 5-13); Người đàn
bà Ca-na-an có đức tin mạnh đã được Đức Giê-su trục xuất quỷ ra khỏi
đứa con gái của bà (x. Mt 15, 28).
-
Ba là: Người hứa “sẽ ở cùng họ mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20): Ngày xưa Đức Chúa đã
hứa ở với Mô-sê khi sai ông đi cứu dân Ít-ra-en khỏi tay Pha-ra-ô của
Ai-Cập như sau: “Ta sẽ ở với người” (Xh 3, 12). Ngày nay, Đức Giê-su
cũng hứa ở cùng các môn đệ để giúp các ông chu toàn nhiệm vụ được
Người trao phó. Cũng như Mô-sê xưa nhờ được Đức Chúa hiện diện phù
giúp đã đưa được dân Ít-ra-en thoát cảnh nô lệ cho dân Ai-Cập về tới
Hứa Địa, thì nay với sự hiện diện của Chúa Phục Sinh, các môn đệ
cũng sẽ thành công trong sứ mệnh “đi và làm cho muôn dân trở thành môn
đệ Người”.
2) TRUYỀN GIÁO LÀ RA ĐI, LẮNG NGHE , VÀ CHIA SẺ
NIỀM VUI ƠN CỨU ĐỘ:
Nhân ngày Chúa Nhật Truyền
Giáo, Đức Phan-xi-cô đã dựa theo sách Công Vụ Tông Đồ dạy về tiến trình ba bước
loan báo Tin Mừng nhờ ơn Thánh Thần, qua câu chuyện tông đồ Phi-líp-phê thực
hiện với viên thái giám người xứ Ê-thi-ô-pi như sau:
-Bước
một: “Hãy đứng lên và ra đi”:
Thần Khí ra lệnh cho ông Phi-lip-phê:
“Hãy đứng lên và ra đi” (x. Cv 8, 26) . Ngày nay, để trung thành với huấn lệnh
của Chúa, Hội Thánh cũng phải lắng nghe huấn lệnh của Chúa Giê-su với ơn Thánh
Thần thôi thúc, để ra đi loan báo Tin Mừng. Một Hội Thánh không “đứng lên và ra
đi” là một Hội Thánh đang suy yếu bệnh tật.
-
Bước hai: “Hãy lắng nghe sự thao thức của tha nhân” và chia sẻ niềm vui của Tin
Mừng:
Thần Khí ra lệnh cho ông Phi-líp-phê
chạy theo xe ngựa của quan thái giám người Ê-thi-ô-pi. Ông quan này đã đi hành
hương Giê-ru-sa-lem và đang trên đường về quê nhà. Ông đang đọc đoạn sách ngôn
sứ I-sai-a. Khi thấy Phi-líp-phê chạy theo xe mình, viên thái giám liền dừng xe
mời ông lên xe với mình. Trong câu chuyện, theo yêu cầu của viên thái giám, Phi-líp-phê
đã trình bày về Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai cho ông. Nhờ được Thần Khí tác
động, viên thái giám đã tin vào lời Phi-lip-phê giảng và khi xe ngang qua chỗ có
nước, ông đã yêu cầu được nhập đạo. Ông tuyên xưng đức tin vào Đức Giê-su Ki-tô
là Con Thiên Chúa, và được Phi-lip-phê làm phép rửa dìm mình trong nước. Sau
đó, Thần Khí đã đưa Phi-líp-phê rời đi nơi khác, còn viên thái giám lại tiếp
tục cuộc hành trình về quê nhà trong niềm hân hoan (x. Cv 8, 27-40).
Ngày nay Hội Thánh cũng cần
phải lắng nghe sự thao thức của con người thời đại để biết họ nghĩ gì muốn gì, rồi
tìm cách đáp ứng bằng cách chia sẻ niềm vui ơn cứu độ của Chúa cho họ.
Tóm lại Đức Phan-xi-cô đã
khuyên các tín hữu hãy truyền giáo bằng ba việc: “Hãy đứng lên và ra đi; Hãy lắng
nghe thao thức của tha nhân; Hãy chia sẻ niềm vui Tin Mừng của Chúa cho họ”.
3) TRUYỀN GIÁO CHÍNH LÀ TRUYỀN NGỌN LỬA YÊU THƯƠNG
- Trong đêm Vọng Phục
Sinh, lòng nhà thờ hoàn toàn chìm trong bóng tối. Thế rồi, từ cuối nhà thờ, Nến
Phục Sinh được thắp sáng lên và được long trọng rước lên cung thánh. Linh mục
chủ sự lấy lửa từ Nến Phục Sinh thắp lên cho một vài cây nến nhỏ bé khác trên
tay vài người. Những người nầy lại đem lửa phục sinh thắp lên cho người bên
cạnh và cứ tiếp tục như thế, chẳng mấy chốc, cả ngàn cây nến nhỏ của các tín
hữu tham dự đều được thắp lên.
- Loan Tin Mừng cũng là
thắp lên lửa yêu thương cho người quanh ta. Lửa đức tin, lửa yêu thương đã được
Chúa Giê-su thắp lên trong ta, thì đến lượt mỗi chúng ta cũng hãy thắp lửa đức
tin, lửa yêu thương ấy cho người bên cạnh và công việc truyền lửa nầy cần được
tiếp nối không ngừng.
- Thánh Tê-rê-sa
Can-quýt-ta cũng cho rằng truyền giáo là chia sẻ tình thương. Mẹ không rao
giảng Phúc Âm bằng lời nhưng bằng những tâm tình và cử chỉ yêu thương cụ thể.
Mẹ cũng không chủ trương yêu thương chung chung, nhưng là yêu thương từng người
cụ thể ngay ở bên mình.
Mẹ nói: “Đối với chúng
tôi, điều quan trọng là từng người một. Để thương yêu một người thì phải đến
gần người ấy… Tôi chủ trương một người đến với một người. Mỗi một người đều là
hiện thân của Đức Ki-tô… Người đó phải là người duy nhất trên thế gian mà ta
cần yêu thương trọn vẹn trong giây phút đó.”
Với tâm tình nầy, Mẹ Tê-rê-sa
đã thu phục nhân tâm nhiều người trên thế giới. Cũng bằng phương thức nầy, Giáo
Hội Hàn Quốc đã làm gia tăng gấp đôi số tín hữu chỉ trong vòng mười năm!
Theo gương Mẹ Têrêxa, mỗi
một người công giáo nên kết thân với một người lương, coi người đó như anh em
ruột thịt và đem hết lòng yêu thương người đó.
Mỗi gia đình công giáo nên
kết thân với một gia đình lương dân, coi họ như người thân quyến của mình để
sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi; Khi có kỵ giỗ, cưới xin hay lễ lạc gì trong gia
đình, hãy mời họ cùng đến hiệp thông. Nhờ đó hai bên thắt chặt mối giây thân ái
và nhờ đó, Tin Mừng của Chúa Ki-tô sẽ chiếu sáng như ánh nến trong đêm Vọng
Phục Sinh.
4) CỤ THỂ CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ?:
-
Đừng “đứng nhìn lên trời”: Hãy xuống núi để chu toàn sứ mệnh loan
báo Tin Mừng bằng việc ăn ở công minh chính trực, chu toàn bổn phận đối
với Thiên Chúa và tha nhân. Nhất là bằng thái độ biết nghĩ tới người
khác và đáp ứng nhu cầu của họ, khiêm nhường phục vụ những người
đau khổ bất hạnh. Ngoài ra còn phải dấn thân đến với những anh em chưa
biết Chúa, để hợp tác cải thiện xã hội và sãn sàng chia sẻ “Chúa là
Tình Yêu” cho tha nhân.
- Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ: Ngày nay, khi
lãnh nhận phép rửa tội và thêm sức, chúng ta cũng đón nhận ánh
sáng Tin Mừng và có sứ mệnh chiếu ánh sáng đức tin trong môi trường sống
là khu xóm, trường học, chợ búa, cơ quan xí nghiệp, và hết mọi nơi. Chu
toàn sứ mệnh sống chứng nhân, chia sẻ niềm tin về Chúa Giê-su đã chết và
sống lại.
- Hãy lãnh nhận Thánh Thần (x. Ga 20, 21-22): Sứ mệnh
truyền giáo thật là khó khăn như kinh nghiệm của Hội Thánh suốt hơn hai
mươi thế kỷ qua đã chứng minh. Để giúp Hội Thánh chu toàn sứ mệnh truyền
giáo, Đức Giê-su đã hứa ban Thánh Thần để giúp Hội Thánh hiểu biết sự thật
toàn vẹn (x. Ga 16, 7. 13). Vào buổi chiều ngày phục sinh, Đức Giê-su đã hiện
đến với các môn đệ và sai các ông giống như Chúa Cha đã sai Người. Người thổi
hơi ban Thần Khí cho các ông và phán : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Người hiện ra nhiều lần để củng cố đức tin cho các ông. Rồi vào lễ Ngũ Tuần,
Thánh Thần đã tác động như cơn gió bão ùa vào nhà tiệc ly và đổ ơn Thánh Thần
trên đầu mỗi vị (x. Cv 2, 1-4). Nhờ ơn Thánh Thần soi dẫn phù trợ mà chỉ sau
một bài giảng của Tông đồ Phê-rô, đã có tới ba ngàn người tại
Giê-ru-sa-lem xin nhập đạo (x. Cv 2, 41).
- Hãy kết nghĩa với lương dân:
Năm 1983, khi thánh Giáo
Hoàng Gio-an Phao-lô II đi thăm Giáo Hội Hàn quốc và tấn phong 103 thánh tử đạo
người nước này, thì Giáo Hội Hàn quốc mới chỉ có 3 triệu rưỡi tín hữu. Khi ấy Đức
Hồng Y Stephano Kim đã hứa với Đức Thánh Cha sẽ đẩy mạnh công việc truyền giáo
bằng hoạt động cụ thể như sau: mỗi gia đình Công giáo Hàn quốc cần kết nghĩa
với một gia đình lương, và mỗi tín hữu Hàn quốc cần có ý hướng truyền giáo cho
một anh chị em ngoài Công giáo.
Sự kết nghĩa thiêng liêng
thể hiện bằng việc âm thầm cầu nguyện cho anh em lương dân, năng đến thăm giúp
đỡ để gây thiện cảm với họ và tìm dịp thuận tiện giới thiệu Chúa cho họ. Chính công
việc này đã mang lại kết quả tốt đẹp: Chỉ sau 10 năm, số tín hữu công giáo Hàn
quốc đã tăng lên gấp đôi !
Ngày nay, nếu chúng ta quyết tâm chu toàn
sứ mệnh truyền giáo và áp dụng các phương thế của các môn đệ thời
Hội Thánh Sơ Khai là: cộng tác với ơn Thánh Thần, hăng hái ra đi loan báo Tin
Mừng bằng lời nói và bằng lối sống yêu thương cụ thể… thì chắc chắn
chúng ta sẽ chu toàn được sứ mệnh truyền giáo như sau : “Hãy đi và làm
cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28, 19); “Hãy nên chứng nhân của Thầy…
cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1, 8).
4. THẢO LUẬN:
1)
Đối với những “Ki-tô hữu vô danh” là những người đã có đức tin và
muốn theo đạo, nhưng vì hoàn cảnh như là con trai trưởng phải lo cúng
giỗ cha mẹ, nên chưa thể gia nhập đạo ngay, chúng ta nên làm gì để giúp
họ sống đức tin vào Chúa?
2)
Nếu họ chết khi chưa chịu phép rửa tội, thì họ có được ơn cứu độ không?
(x. Lc 23, 40-43).
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu
của con, nếu Hội Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì
hẳn Hội Thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất. Đó là
Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu. Chính tình yêu làm cho Hội Thánh
hoạt động. Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu, thì các tông đồ sẽ ngừng
rao giảng, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giêsu, cuối
cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con, ơn gọi của con
chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của
con trong Hội Thánh: nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu, và như thế con
sẽ là tất cả, vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh. Lạy Chúa, với
chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con được thực hiện. (Theo thánh
Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su).
X)
HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH -
HHTM