Trang Chủ > Suy Niệm > Mùa Phục Sinh

Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật V Phục Sinh A

Hiệp Thông bền vững

CHUA NHAT V PHUC SINH.jpg

 

Thiên Chúa là Ai? Người là Cha mà Chúa Giê su đã mạc khải cho chúng ta. Chính giờ đây, ngang qua Giáo hội đầy những giới hạn và tội lỗi của con người mà Đấng Tối cao tiếp tục tỏ hiện. Dù mang thân phận yếu hèn, Giáo Hội không ngừng được Thánh Thần của chính Chúa Giê su nâng đỡ để lảm chứng cho lời mời gọi đến tình yêu vượt thắng mọi trở ngại.

Sách Công vụ  6, 1-7

Sự Tự do của con cái Thiên Chúa hối thúc các môn đệ “cùng chung tay” đối đầu với những trách nhiệm trong tư cách là “nhóm”, “trong Giáo Hội”. Để dành nhiều giờ cho việc cầu nguyện và giảng dạy Lời hơn, các tông đồ giao phó những trách vụ thế gian cho các thừa tác viên khác. Người ta đã chú ý đến sự hiện diện của các người ngòai vừa từ ngọai giáo gia nhập ki tô giáo.

Thánh Vịnh 32

Dù bị chống đối, Thiên Chúa vẫn theo đuổi công trình yêu thương, chân lí, công chính và lề luật mạc khải sự Cao cả của Người. Thánh vịnh nầy là tiếng kêu vui để mừng tình yêu của Chúa.

Thư thứ 1 Phêrô 2, 4-9

Thánh Phê rô nhắc cho những người có Đức tin rằng theo gương Đức Ki tô, họ phải sống hoạt động trong Giáo Hội: “Anh em hãy là những viên đá sống động”. Hãy dùng những ơn mà anh em đã lãnh nhận từ Thiên Chúa, hãy sáng tạo trong việc xây dựng Vương quốc Thiên Chúa. Rồi ngài nhắc lại cho tất cả mọi người về phẩm giá của mình: “Anh em là giống nòi được tuyển chọn, tư tế hoàng vương, là dân tộc thánh”.

Tin mừng: Ga 14, 1-14

NGỮ CẢNH

Đoạn tin mừng nầy nằm trong diễn văn từ biệt đầu tiên của Chúa Giê su (13,31-14, 31; diễn từ thứ hai: cc 15-16; diễn từ thứ ba: c. 17) sau khi đã rửa chân cho các môn đệ (13, 1-20) và loan báo Giu đa phản bội (13, 21-30). Chúa Giê su trấn an các môn đệ và khuyên các ông hãy nhìn chuyến ra đi của Ngài bằng đức tin: các ông sẽ không bị chia lìa với Ngài và Ngài sẽ trở lại để đưa các ông cùng đi với Ngài.

Có thể đọc đọan tin mừng theo bố cục sau đây:

1. Lời trấn an các môn đệ trước sự ra đi của Chúa Giê su (1-4)

2. Ý kiến của Tôma và mạc khải của Chúa Giê su: “Ta là đường..”(4-7)

3. Ý kiến của Phi líp và mạc khải của Chúa Giê su: “Ngài ở trong Cha và Cha ở trong Ngài” (8-10).

TÌM HIỂU

Anh em đừng xao xuyến: Chúa Giê su nhấn mạnh rằng việc Ngài ra đi là cần thiết cho các môn đệ; đừng để lòng xao xuyến trong cái nhìn cách tiêu cực (14, 1.27) nhưng hãy nhìn theo đức tin (14, 1.29).

Hãy tin vào Thầy: đây là điều cốt yếu trong toàn bộ Tin mừng Gioan. Nhưng cũng là điều khó khăn nhất. Người Híp pri tin vào Thiên Chúa độc nhất nên đã tự hỏi: có thể tin vào một mạc khải mới của Thiên Chúa chăng? Do vậy Chúa Giê su khẳng định rõ ràng rằng cần phải tin vào Thiên Chúa vào Ngài nữa.

Nhà: kiểu nói gây ngạc nhiên: Chúa Giê su muốn nói đến điều gì? về đền thờ chăng? (x. 2, 16). Thưa không! Ngài nói về một ngôi nhà mầu nhiệm khác, môt nơi sống với Thiên Chúa mà Ngài gọi là Cha.

Có nhiều chỗ ở: hình ảnh nhà ở trên hàm chứa hình ảnh chổ ở. Chúa Giê su khẳng định có đủ chỗ cho mọi người.

Thầy lại đến: nghĩa là từ giờ và không chỉ trong thế giới bên kia Chúa Giê su trở lại để mang chúng ta đi với Ngài.

Anh em biết đường rồi: như tất cả những người Híp pri, các môn đệ biết rằng lịch sử con người, như cuộc Xuất hành, là chuyến đi về Thiên Chúa; họ cũng biết Lề luật là con đường đưa đến Thiên Chúa (x. Tv 119). Nhưng họ được khuyến khích rằng cần phải theo Chúa Giê su: cần phải thay thế con đường lề luật bằng con đường của đức tin vào Chúa Giê su (14, 11)..

Tôma: lần thứ hai lên tiếng. X. 11, 16.

Đường: có nhiều nghĩa. Trong câu nói của Chúa Giê su, “Đường” không có nghĩa là một chuyển dịch nơi chốn, mà là một cách đi vào trong tình thân mật với Cha.

Ta là: một định nghĩa long trọng về sứ mạng của Chúa Giê su. Ngài là “Con đường” đưa tới Thiên Chúa, nghĩa là mẫu mực phải bắt chước, đấng Trung gian mà qua đó cần phải đi và đưa đến tận Thiên Chúa. Ngài là Con đường, theo nghĩa là Chân lí: Ngài đã mạc khải Thiên Chúa là ai và con người là ai; như là sự Sống, Ngài bắt đầu sự sống ở trong Thiên Chúa và biến chúng ta thành con cái của Ngài (x. 1,4; 5, 26; 6, 57).

Thấy: Chúa Giê su đào sâu giáo huấn của Ngài. Trong chính bản tính nhân loại, Ngài là sự mạc khải đầy đủ về Cha. Từ đây lời của Ngài khơi gợi và đầy bí nhiệm: “Anh em đã thấy Cha

Philíp: lên tiếng lần thứ ba.

Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha: như mọi người Híp pri và ki tô hữu ở mọi thời, Phi líp mong đợi một cuộc tỏ hiện lạ lùng của Thiên Chúa (x. 2, 18). Người ta muốn nhìn thấy dấu chỉ và không chấp nhận chế độ đức tin, tức là tin mà không thấy (20, 29).

Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha: cần tin vào Chúa Giê su như là mạc khải của Cha. Ngài là dấu chi duy nhất, điều nhìn thấy duy nhất, hình ảnh của Cha. Cha là đấng vô hình vì là Thiên Chúa, đã trở nên hữu hình nhờ Chúa Giê su (1, 14). Nhưng để nhìn thấy Ngài, cần phải tin vào Ngài, khám phá trong đức tin rằng Cha và Con thông hiệp hoàn toàn.

Làm những việc: Thiên Chúa hoàn thành công trình của Người trong sự chết và phục sinh của Chúa Giê su.

Những việc lớn hơn nữa: như thường thấy trong tin mừng Gioan, điều được nói về những tương quan giữa Chúa Giê su và Cha thì bất ngờ được áp dụng cho các môn đệ. Giáo Hội là hình ành của Chúa Giê su, như Chúa Giê su là hình ảnh của Cha. Điều gì Cha đã thực hiện trong Chúa Giê su, được tiếp tục thực hiện trong Giáo hội nhờ Chúa Giê su.

Thầy đến cùng Chúa Cha: sở dĩ Giáo Hội được phong phú là nhờ vào chiến thắng của Chúa Giê su, đã cho phép Ngài gửi Thần khí xuống từ nơi Cha (x. 6, 7).

Anh em xin: việc các môn đệ thực hiện là kết quả do lời cầu nguyện mang lại (x. 15, 16; 16, 23-24. 26). Do vậy có một sự nối kết giữa hành động hiệu quả và cầu nguyện. Chúa Giê su đã nói, hoặc là “anh em hãy xin” (hiểu ngầm Thiên Chúa), hoặc “anh em hãy cầu xin Thầy”. Nhưng trong cả hai trường hợp, Ngài thêm “trong danh Ta”, nghĩa là bằng cách khẩn cầu Danh Thầy. Để có thể đạt tới Thiên Chúa điều cần thiết là phải tin vào danh, nghĩa là vào con người của Con Ngài và cầu xin Cha ngang qua Chúa Giê su.

Trong cả hai trường hợp. Chúa Giê su khẳng định rằng chính Ngài  “đang làm”. Qua đó, Ngài tôn vinh Cha, bằng cách bày tỏ quyền năng mà Cha đã ban cho Con. Ngài sẽ tiếp tục tỏ ra quyền năng ngang qua các môn đệ cầu xin nhân danh Ngài.

SỨ ĐIỆP

Chủ nhật tuần rồi, chúng ta đã nghe Chúa Giê su nói: “Ta là mục tử tốt lành. Ta là cửa chuồng chiên. Ai qua ta mà vào thì sẽ được cứu”. Hôm nay, Ngài tiếp tục mạc khải: “Thầy là đường là Sự thật và là sự sống [..] Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. Bản văn nầy là bài diễn từ Chúa Giê su nói trong bữa ăn tối cuối cùng của Ngài với các môn đệ. Ngài vừa loan báo rằng Ngài sẽ bị phản bội, bị khước từ và bị giết trên thập giá. Các môn đệ hoàn toàn chưng hửng khi nghe điều ấy.

Vì thế, điều trước tiên Chúa Giê su làm là trấn an họ. Đối với Ngài, thời điểm bi đát đó, chính là giờ chiến thắng của Ngài. Chính vì vậy mà Ngài yêu cầu họ đừng xao xuyến lo âu. Nếu Ngài trở về với Cha, thì cũng là để chuẩn bị một nơi ở. Ngài mời gọi họ tiếp tục sống gần bên Ngài vì không gì có thể tách họ khỏi tình yêu của Ngài. Trong một tình thế xem ra tuyệt vọng, họ được mời gọi hãy nhìn bằng đức tin để có thể tin vào Ngài cũng như họ tin vào Thiên Chúa. Điều đó có nghĩa là tin vào Chúa Giê su và tin vào Thiên Chúa là như nhau.

Thật vậy, Chúa Giê su là con đường duy nhất có thể dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa. Chính vì thế mà Ngài nói: “Ta là đường, là Sự thật và là Sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. Con đường mà Chúa Giê su chỉ cho chúng ta được mạc khải qua các sách Tin mừng: Ngài con đường Sự Sống, cho phép chúng ta tìm gặp Thiên Chúa. Sứ mạng của Ngài là mạc khải cho chúng ta Chân lí về Thiên Chúa, nhờ đó mà qua cuộc sống của Chúa Giê su, chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Cha chúng ta, một người Cha yêu thương tiếp đón những người tội lỗi hối cải. Chính qua Chúa Giê su mà chúng ta có thể tìm gặp Thiên Chúa và đi đến với Ngài. Dù trong hoàn cảnh nào đi nữa, thuận tiện hay không, Tin mừng ấy phải được loan truyền cho mọi người ở mọi nơi chúng ta đang sống và trên khắp thế giới.

Đó chính là sứ điệp mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phao lô II đã chuyển đến cho chúng ta trong suốt thời gian phục vụ của Ngài. Qua giáo huấn và trong các chuyến đi mục vụ, Ngài không ngừng loan báo cho chúng ta Tin mừng. Ngài không mệt mỏi mời gọi chúng ta tái qui hướng cuộc sống chúng ta về tâm điểm là Đức Ki tô. Vị kế nhiệm của Ngài, liên kết với tất cả các Giám Mục có bổn phận tiếp nối để dẫn chúng ta đến với Đức Ki tô và giúp chúng ta đi theo Ngài trên con đường Ngài đã chỉ cho chúng ta.

Ngày hôm nay, chúng ta không quên rằng đám đông bao la các chứng nhân đức tin đã nhận được phần thưởng tình yêu và lòng tín trung của họ. Chúa Giê su đối với họ đã là con đường dẫn họ đến với Cha. Trong đó có các Linh mục, tu sĩ, và giáo dân dấn thân đã đáp lại lời mời gọi của Chúa. Cuộc đời của họ làm chứng rằng đi theo Chúa Kitô là điều đáng làm bởi vì nơi Ngài mà cuộc sống của chúng ta mới có một ý nghĩa.

Vì thế, mỗi người có thể tự đặt câu hỏi: Chúa Giê su có phải là đường, chân lí và cuộc sống của tôi không? Chúng ta có thật sự đi theo Ngài không? Nhiều khi chúng ta tổ chức đời sống chúng ta mà không quan tâm gì đến Ngài, hay có thể Ngài trở thành người xa lạ đối với đời sống chúng ta hay đúng hơn chính chúng ta là những người xa lạ đối với Ngài. Ngày càng có nhiều người sống không có điểm tựa, không có đức tin, không có tương lai cho cuộc sống. Cách họ phung phí của cải và thời giờ rảnh rỗi cho thấy rằng đầu óc và tâm hồn bị lệch lac. Họ cần một ai đó chịu khó lắng nghe họ, hiểu họ và nhất là chỉ cho họ thấy rằng Đức Ki tô đang hiện diện và đang gõ cửa lòng họ.

Tin vào Đức Kitô và đi theo Ngài sẽ mang lại nhiều phần thưởng. Thiên Chúa xứng đáng cho người ta cống hiến cả cuộc đời mình. Thế giới của chúng ta cần các chứng nhân như thế để dẫn đưa chúng ta về với Đức Kitô.

Chúa Giê su nói với chúng ta: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. Không nên hiểu đó là một lời bắt buộc nhưng là một đáp trả của một tình yêu. Điều quan trọng là chính sự liên đới của chúng ta trong Chúa Giê su Ki tô. Trong Giáo hội, chúng ta là một gia đình lớn. Nguy hiểm chính yếu mà chúng ta phải đề phòng, đó là cá nhân chủ nghĩa khiến chúng ta co cụm trong chính mình và ngăn cản chúng ta nhìn thấy người khác.

Khi nói với chúng ta rằng không ai đến với Cha mà không qua Ngài, Chúa Giê su muốn nói đến sự liên đới của Ngài với toàn thể nhân loại. Và cũng có thể nói rằng Đức Ki tô không đến với Cha mà không có chúng ta. “Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy. Khi Thầy ra đi dọn chỗ cho anh em, Thầy sẽ trở lại đón anh em”. Đó là một sứ điệp hi vọng chắc chắn đem lại cho chúng ta niềm vui bởi vì nó làm cho cuộc sống có ý nghĩa.

Chúa Giê su kết thúc bằng một lời hứa long trọng: “Ai tin vào Thầy thì sẽ làm được những việc như Thầy”. “Công việc” ở đây nói đến công việc lớn lao của Thiên Chúa là giải thoát dân của Người. Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa liên kết vào trong công việc lớn lao ấy để giải thoát toàn thể nhân loại khỏi mọi ách nô lệ tội lỗi và sự chết. Lời hứa của Đức Ki tô phải giúp chúng ta xác tín mọi ngày rằng sự giải thoát là có thể thực hiện được.

Chủ nhật hôm nay, chúng ta tụ họp để cử hành Thánh Thể; chúng ta tiếp nhận lương thực cần thiết để tiếp tục con đường đi theo Đức Ki tô và nối kết chúng ta vào trong công việc của Ngài. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện xin Đức Ki tô giúp chúng ta luôn sẵn sàng làm chứng cho tình yêu cứu độ của Ngài.

ĐÀO SÂU

ĐỨC GIÊ-SU LÀ ĐƯỜNG DẪN ĐẾN SỰ THẬT VÀ SỰ SỐNG

Cv 6, 1-7 Những người phụ tá đầu tiên cho các Tông đồ

Tv 33, 1 Lạy Chúa, xin tỏ tình thương cho chúng con như chúng con tin cậy ở Chúa

1 Pr 2, 4-9 Dân Tư tế

Ga 14, 1-12 Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy

1. HỎI: Các bài đọc được liên kết theo chủ đề gì?

THƯA: ĐỨC GIÊ-SU LÀ ĐƯỜNG DẪN ĐẾN SỰ THẬT VÀ SỰ SỐNG. Đó là mạc khải của Đức Giê-su cho các môn đệ (BTM).Tất cả những ai tin nhận đều trở thành Dân Tư tế của Thiên Chúa (Bđ2), nơi mà mọi người đều quan tâm phục vụ lẫn nhau (Bđ1).

2. HỎI: Bối cảnh của bài đọc một (Cv 6, 1-7) như thế nào?

THƯA: Cộng đoàn tín hữu càng đông thì vấn đề hiệp nhất càng cấp thiết. Cộng đoàn Giê-ru-sa-lem lúc bấy giờ phát sinh vấn đề sống chung huynh đệ giữa những người Do thái nói tiếng Hi lạp và những người Do thái bản xứ. Và chuyện phân chia không đồng đều trong việc cứu trợ hằng ngày cho các bà góa Hi lạp đã làm cho vấn đề trở nên trầm trọng và khẩn thiết khiến cho Hội Thánh phải ra tay giải quyết.

3. HỎI: Trước vấn đề đó, các tông đồ giải quyết như thế nào?

THƯA: Các tông đồ bấy giờ triệu tập cộng đoàn các môn đệ, nhắc lại lòng trung thành với việc cầu nguyện, phục vụ Lời và phục vụ anh em, và cuối cùng thiết lập một tổ chức mới để giải quyết vấn đề.

4. HỎI: Mục tiêu nhắm đến trong cuộc giải quyết là gì?

THƯA: Mục tiêu là giữ vững sự hiệp nhất của cộng đoàn theo lời ước nguyện của Đức Giê-su: “Xin Cha cho họ nên Một để thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17, 21). Vì thế các tông đồ không giải quyết bằng cách chia đôi cộng đoàn, một gồm những người nói tiếng Hi lạp, một cho những người dùng ngôn ngữ bản xứ, nhưng giữ vững sự hiệp nhất bằng cách thành lập một cơ chế mới. 

5. HỎI: Nhóm Mười hai quyết định ra sao?

THƯA: Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, các Ngài đã chọn Bẩy người có tiếng tốt, đầy Thánh Thần và khôn ngoan để trao phó cho họ công việc phục vụ bác ái đầy ích lợi ấy.

6. HỎI: Bẩy người ấy được gọi bằng danh xưng gì?

THƯA: Thánh Lu-ca chưa gọi họ là các ‘Phó tế’, nhưng họ là tiền thân của các Phó tế trong Hội Thánh Tông truyền.

7. HỎI: Nội dung bài đọc 2 (1Pr 2, 4-9) thế nào?

THƯA: Kết hiệp với Đức Ki-tô là viên đá gốc tòa nhà cộng đoàn, Hội Thánh lớn lên trở thành dân tộc tư tế đích thực của Thiên Chúa.

8. HỎI: Ngữ cảnh bài tin mừng (Ga 14, 1-12) thế nào?

THƯA: Bài tin mừng thuộc về diễn từ đầu tiên (13, 31- 14, 31) Đức Giê-su nói với các môn đệ sau khi rửa chân cho các ông (13, 1-30) và loan báo Giu-đa sẽ phản bội Ngài (13, 21-30). Trước lúc ra đi, biết các tông đồ lo âu, xao xuyến, nên Ngài tìm cách trấn an bằng cách mời gọi họ hãy tin vào Thiên Chúa và vào Ngài. Có 3 ý chính: 1) Đức Giê-su trấn an các môn đệ (14, 1); 2) Mạc khải về Nhà Cha và đường về (14, 2-6); 3) Mạc khải về sự duy nhất Cha–Con (14, 7-12).

9. HỎI: Tại sao Đức Giê-su khuyên các tông đồ: “Anh em đừng xao xuyến”?

THƯA: Vì Ngài hiểu rõ hoàn cảnh lúc bấy giờ của các Tông đồ. Họ lo lắng vì sợ người Do thái trả thù. Một số thì tỏ ra thất vọng chán chường vì điều họ hi vọng bấy lâu giờ sụp đổ tan tành.

10. HỎI: Đức Giê-su đã làm gì?

THƯA: Ngài khơi lại niềm hi vọng mới cho các tông đồ. Đó không phải là niềm hi vọng trần thế về một cuộc giải phóng khỏi ách nô lệ người La mã, mà là một niềm hi vọng trên bình diện mới.

11. HỎI: Niềm hi vọng đó đặt trên căn bản nào?

THƯA: Đặt trên đức tin vào Thiên Chúa và vào Đức Giê-su. Và để giúp họ tin vào Ngài, Đức Giê-su đã cho họ thấy sự hiệp nhất sâu xa giữa Thiên Chúa Cha và Ngài.

12. HỎI: ‘Không ai đến với Cha mà không qua Thầy’ có nghĩa gì?

THƯA: Có nghĩa là Đức Giê-su là con đường độc nhất đưa con người đến với Thiên Chúa. Đó là mầu nhiệm sự liên đới của chúng ta trong Đức Giê-su Ki-tô: Đức Ki-tô là đầu của Thân mình mà chúng ta là chi thể.

13. HỎI: “Công việc” mà Đức Giê-su nói đến là công việc gì?

THƯA: Đó không chỉ là những phép lạ. Trong Cựu Ước, từ ‘công việc’ khi nói về Thiên Chúa luôn nhắc lại việc vĩ đại mà Thiên Chúa đã thực hiện để giải thoát dân Người. Vì thế, từ nay các môn đệ được liên kết vào công việc mà Thiên Chúa thực hiện để giải thoát nhân loại.

14. HỎI: “Thầy là Đường” có nghĩa gì?

THƯA: Ông Tô-ma hiểu đường theo nghĩa đen, là một con đường do tay con người làm ra (14, 50), còn Đức Giê-su lại hiểu theo nghĩa bóng: Ngài là Đường có nghĩa là Trung gian dẫn mọi người đến với Thiên Chúa Cha, giúp cho họ tin vào Người, đi vào tình thân mật với Người. Đường dẫn con người đến với Thiên Chúa trong Cựu Ước là Lề Luật Mô-sê. Nhưng từ nay, con đường ấy chính là Đức Giê-su (Mc 8, 34; Mt 16, 24; Hr 10, 20)

15. HỎI: Đối với Gio-an “sự thật” có nghĩa gì?

THƯA: Trong Cựu Ước, “sự thật” là tiếng nói của Thánh ý Thiên Chúa liên quan đến loài người và đời sống luân lí của họ. Theo Gio-an, “sự thật” là mạc khải cuối cùng do Đức Giê-su mang đến. Đó là mạc khải được thực hiện trong con người và hành động của Ngài. Đó là mạc khải chung quyết, đối lại với mạc khải tạm thời của Cựu Ước, như thực tại (Đức Giê-su) với hình bóng (CƯ). Vì là sự thật có sức cứu rỗi, nên Đức Giê-su là đường dẫn đến Thiên Chúa Cha.

16. HỎI: Tại sao gọi Đức Giê-su là “sự sống”?

THƯA: Muốn được sự sống vĩnh cửu, con người phải nghe và thực hiện những gì Thiên Chúa phán dạy. Mà Đức Giê-su nói Lời Thiên Chúa, Lời tuyệt hảo và chung quyết của Thiên Chúa, nên ai nghe và giữ lời Đức Giê-su thì có sự sống đời đời. Vì thế Đức Giê-su chính là sự sống của Thiên Chúa.

17. HỎI: Vậy “Đường, Sự Thật, và Sự Sống” liên quan với nhau như thế nào?

THƯA: Đức Giê-su chính là “Đường”, là trung gian tuyệt hảo đưa con người đến với Thiên Chúa Cha vì Ngài là sự Thật, nơi Ngài con người tìm được những gì cần cho ơn cứu rỗi, và Sự Sống đời đời.

18. HỎI: Sống Lời Chúa như thế nào?

THƯA: 1. Chúng ta được mời gọi hoàn thành công việc của Đức Ki-tô trong đời sống của chúng ta, một cách rất khiêm nhường nhưng rất thực tế. Tức là tìm cách biến đổi dần dần thế giới chung quanh theo kế hoạch của Thiên Chúa bằng lời cầu nguyện và kết hợp với Đức Ki-tô trong một tình yêu quảng đại. 2. Ơn gọi tư tế của người tín hữu là dâng cuộc sống mình hằng ngày làm hiến lễ thờ phượng Thiên Chúa. Và đó là cách thức góp một viên đá xây dựng tòa nhà Hội Thánh.

 GLCG 459 520, 823 2012 1717, 1965. Ngôi Lời đã làm người để trở thành mẫu mực thánh thiện cho chúng ta. "Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học gương tôi"(Mt ll, 29). "Chính Thầy là đường, là sự thật và là sự sống; không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy" (Ga l4, 6). Và trên núi Hiển Dung, Chúa Cha đã ra lệnh: "Hãy vâng nghe lời Người" (Mc 9, 7) ( x. Đnl 6, 4-5). Người đúng là khuôn mẫu về các mối chân phúc và là qui tắc của Luật mới : "Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga l5, l2). Tình yêu này đòi hỏi chúng ta hy sinh cho anh em theo gương của Chúa ( x. Mc 8, 34).

1025 1011."Lên Thiên Đàng" là "được ở với Đức Ki-tô" ( x. Ga 14, 3; Pl 1, 23;1Th 4, 17). Những người được tuyển chọn "sống trong Người", nhưng vẫn giữ, hay nói đúng hơn là tìm được căn tính đích thực của mình, danh xưng riêng của mình ( x. Kh 2, 17). "Vì sống là được ở với Đức Ki-tô; và ở đâu có Đức Ki-tô, nơi đó có sự sống, nơi đó là Nước Trời" ( x. T.Am-rô-xiô chú giải TM-Lc 10, 121).

1698 426. Điểm qui chiếu đầu tiên và cuối cùng của một huấn giáo như vậy luôn luôn phải là chính Đức Giê-su Ki-tô, Đấng là "con đường, là sự thật, và là sự sống" (Ga 14, 6). Khi lấy đức tin mà nhìn Đức Ki-tô, các tín hữu có thể hy vọng chính Người sẽ thực hiện nơi họ những điều Người đã hứa. Còn khi yêu mến Người bằng tình yêu Người đã yêu mến họ, họ thực hiện được những việc phù hợp với phẩm giá của mình.


Các bài viết mới hơn
     Suy niệm Lời Chúa Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống_Lm Giuse Đỗ Đức Trí
     Suy niệm Lời Chúa Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống_Lm Đan Vinh - HSTM
     Suy niệm Lời Chúa Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống_Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Sáu Tuần VII Phục Sinh_Nt. M. Anh Thư, OP
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Năm Tuần VII Phục Sinh_Tân Quang
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Tư Tuần VII Phục Sinh_Lm Giuse Nguyễn Duy Khang
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Ba Sau Tuần VII Phục Sinh_Thầy Phêrô_Maria. Mảnh vỡ. FVP
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Hai Tuần VII Phục Sinh_ Nt. Têrêsa Nguyễn Thị Kim Tuyến, OP
     Suy niệm Lời Chúa Chúa Nhật Lễ Chúa Thăng Thiên_Lm Đan Vinh - HSTM
     Suy niệm Lời Chúa Chúa Nhật Lễ Chúa Thăng Thiên_Lm Giuse Đỗ Đức Trí

Các bài viết cũ hơn
     Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật V Phục Sinh_Lm. Giuse Đỗ Đức Trí.
     Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật V Phục Sinh_LM ĐAN VINH - HHTM
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Bảy Tuần IV Phục Sinh_Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc.
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Sáu Tuần IV Phục Sinh_ Tam Thái
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Năm Tuần IV Phục Sinh_Nt. M. Anh Thư, OP
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Tư Tuần IV Phục Sinh_Lm Paul Nguyen Nguyen.
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Ba Tuần IV Phục Sinh_Lm. Giuse Nguyễn Ngọc Quốc Huy.
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Hai Tuần IV Phục Sinh_Lm. J.P
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ 6 Tuần III Phục Sinh_Nt. Phương Trâm
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Năm Tuần III Phục Sinh_Lm. Giuse Nguyễn Duy Khang.