2. Lắng
nghe Sứ thần Gabrien và Đức Maria
- Bước
thứ nhất (c. 28-29) : Sứ thần chào – Đức Maria bối
rối
- Bước
thứ hai (c. 30-34) : Sứ thần loan báo sứ mạng – Đức
Maria không hiểu
- Bước
thứ ba (c. 35-37) : Sự thần giải thích
3. Lắng
nghe lời « Xin Vâng » của Đức Mẹ (c. 38)
*
* *
Ngôi
Lời nhập thể để hiện diện ở giữa loài người chúng ta, nghĩa là để trở nên
« Đấng Emmanuel », cần hai lời « xin vâng »
Ø Lời
xin vâng của Đức Maria để được sinh ra.
Ø Được
sinh ra vẫn chưa đủ, Người còn cần lời xin vâng của Thánh Giu-su,
để thuộc về một gia đình và dân tộc có văn hóa và lịch sử riêng.
Chính
Ngôi Lời đã sống lời XIN VÂNG, và chúng ta được mời gọi nhận ra sự « khiêm
nhường và hiền lành » của Người (x. Mt 11, 28-30), ngay lúc Người để cho
mình được cưu mang và được sinh ra như một em bé (x. Tv 8), và Người được sinh
ra như thế đó, theo lời kể của thánh Luca : « một trẻ sơ sinh bọc tã,
nằm trong máng cỏ » (Lc 2, 12).
Người
vẫn còn cần lời xin vâng của từng người chúng ta, để hiện diện ở giữa chúng ta
và giữa con người hôm nay.
1. Đức Maria (c.
26-27)
Vị trí của Đức Maria thật là lớn lao và duy nhất trong tương quan với Thiên
Chúa và loài người chúng ta : Đức Maria là Mẹ Giáo Hội, trong đó có chúng
ta, và Đức Maria cũng là Mẹ Thiên Chúa. Tuy nhiên, tất cả những ơn huệ lớn lao
của Mẹ đã bắt đầu bằng một biến cố thật hạn hẹp, thật nhỏ bé, thật khiêm tốn,
thật âm thầm và kín ẩn, đó là biến cố Truyền Tin. Nhỏ bé và âm thầm, nhưng đó
chính là một kinh nghiệm thiêng liêng làm thay đổi cuộc đời của Đức Maria, và
của lịch sử cứu độ. Và kinh nghiệm thiêng liêng này là một cuộc đối thoại, đối
thoại giữa Đức Maria và sứ thần Gabriel.
Trước hết, chúng ta cần chú ý đến nơi chốn xẩy ra biến cố Truyền Tin, đó là
nhà của Đức Maria : « Sứ thần vào nhà trinh nữ » (Lc 1, 28). Khi
cầu ngyện với Lời Chúa, chúng ta được mời gọi hình dung ra nơi chốn, ở đó diễn
ra biến cố mà bản văn Tin Mừng thuật lại : nhà, vườn, sa mạc, đồi Calvê…
Việc « đặt khung cảnh » khi bước vào giờ cầu nguyện như thế có hai
mục đích :
- Khi cầu nguyện, chúng ta được mời gọi dấn thân cả con người của chúng ta,
bên trong cũng như bên ngoài. Thế mà, bên trong của chúng ta, có nhiều thứ,
trong đó có trí tưởng tượng. Dùng trí tưởng tượng để hình dung ra một nơi chốn
khi cầu nguyện, đó là giúp chúng ta cầu nguyện với cả con người, đồng thời giúp
định hướng cho trí tưởng tượng, vốn hay dẫn chúng ta đi lang lang, ra khỏi việc
cầu nguyện. Hơn nữa, nơi chốn mà chúng ta hình dung ra, không phải là bất cứ
nơi nào, đó là một nơi chốn của đời thường, nhưng đồng thời cũng là nơi
« thánh », nghĩa là nơi được Chúa viếng thăm.
- Vì thế, một nơi chốn cụ thể còn có một ý nghĩa thiêng liêng : Thiên
Chúa đến gặp gỡ con người không phải ở trên trời cao hay ở một nơi xa vời,
nhưng tại một nơi chốn cụ thể và rất đời thường, chẳng hạn nhà của Đức
Maria ; và đối với chúng ta cũng vậy, đó có thể là một nơi nào đó trong
cuộc đời của chúng ta : trường học, nơi hành hương, nhà tĩnh tâm, trong
vườn của Nhà Dòng, trong căn phòng nhỏ bé, hay nơi nhà nguyện… Vậy đâu là nơi
chốn, ở đó chúng ta được Thiên Chúa viếng thăm, đã làm thay đổi cuộc đời chúng
ta, như trường hợp của Đức Mẹ ?
Trình thuật Truyền Tin có thể được gói gọn trong tiếng « Xin
Vâng » của Đức Mẹ ; và chúng ta thường hiểu tiếng « Xin Vâng »
là câu trả lời tức khắc của Mẹ khi nghe lời đề nghị của Thiên Chúa, qua trung
gian của sứ thần Gabrien. Tuy nhiên, nếu chúng ta đặt lời « Xin
Vâng » của Mẹ vào trong diễn tiến của trình thuật Tin Mừng, chúng ta sẽ
nhận ra rằng, tiếng « Xin Vâng » của Mẹ là điểm tới của cả một cuộc
trao đổi khá dài, và nhất là đầy biến động trong tâm hồn.
Trước hết, chúng ta hãy tự hỏi Đức Maria là ai, theo lời kể của thánh sử
Luca về mầu nhiệm Truyền Tin ? Mẹ là một thiếu nữ Israel, ngụ tại Galilê,
làng Nazarét. Mẹ là một thiếu nữ đã đính hôn, như bao thiếu nữ khác khi đến
tuổi trưởng thành. Một cách chính xác, Mẹ đã đính hôn với một người tên là
Giuse, thuộc dòng dõi Đavít. Như thế, lúc ban đầu, Mẹ là một cô gái như bao cô
gái khác (và cũng tương tự như thế, đối với phái nam). Và có lẽ chúng ta cũng
đã như vậy trước khi bước vào hành trình ơn gọi, ơn gọi gia đình hay dâng
hiến : một cô gái với thân phận bình thường, và với ước mơ về đời mình
cũng thật bình thường. Nhưng Mẹ lại không được vậy, vì, có thể nói, Chúa đến
làm xáo trộn cuộc đời của Mẹ.
Ở đây chúng ta có thể nhìn lại hành trình ơn gọi của mình và tự hỏi :
đâu là những dấu chỉ, những cách thức Chúa dùng để làm xáo trộn cuộc đời chúng
ta, làm cho chúng ta không thể sống như những cô gái (hay một người) bình thường ?
Và trong trình thuật Truyền Tin, Chúa không đến trực tiếp, nhưng qua trung gian
sứ thần Gabriel ; vậy đâu là những người « trung gian » của Chúa
trong cuộc đời và nhất là hành trình ơn gọi của chúng ta ?
2. Sứ thần Gabrien và
Đức Maria
Cuộc đối thoại giữa Sứ Thần và Đức Maria được « đóng khung »,
nghĩa là khởi đầu và kết thúc, bởi chuyển động vào và ra của sứ thần :
« Sứ Thần vào nhà trinh nữ » (c. 28), và sau đó, « Rồi Sứ Thần
từ biệt ra đi » (c. 38). Cuộc đối thoại có thể chia làm ba bước. Chúng ta
hãy lắng nghe từng bước, nhưng không quên nhìn ngắm và quan sát cung cách đối
thoại của Đức Mẹ, vốn diễn tả những tâm tình nội tâm, chẳng hạn sự bối rối lúc
ban đầu.
a. Bước thứ nhất (c. 28-29)
Sứ Thần ngỏ lời với Đức Maria : « Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân
sủng, Đức Chúa ở cùng bà ». Lời chào của sứ thần dành cho Đức Maria trở
thành lời chào của chúng ta, vì Kinh Kính Mừng hằng ngày của chúng ta, của cả
Giáo Hội bắt đầu bằng lời chào này : « Kính Mừng Maria đầy ơn phúc,
Đức Chúa Trời ở cùng bà ». Nhưng ở ngọn nguồn, lời chào này làm cho Đức
Maria rất bối rối.
Chúng ta hãy hình dung ra Đức Maria đang trong trạng thái bối rối và tự hỏi
tại sao ? Chúng ta có kinh nghiệm tương tự như vậy bao giờ chưa ?
Chúng ta có bối rối như Mẹ không ? Nếu chưa, nghĩa là chưa có kinh nghiệm
về tình yêu nhưng không Thiên Chúa dành cho chúng ta từ thủa đời đời, thì Mẹ sẽ
chia sẻ cho chúng ta, bởi vì tất cả những gì Mẹ nhận được là để chia sẻ. Ơn huệ
lớn nhất mà Mẹ nhận được là Đức Giê-su, và Mẹ đã chia sẻ hết cho chúng ta và Mẹ
vẫn chia sẻ mỗi ngày.
Và Đức Mẹ tự hỏi về ý nghĩa của lời chào. Không phải vì Mẹ không hiểu điều
sứ thần muốn công bố, là ân sủng Thiên Chúa dành cho Mẹ cách nhưng không, nhưng
Mẹ không hiểu ý nghĩa của ân sủng : qua ân sủng Thiên Chúa ban cho Mẹ tràn
đầy, Chúa muốn nói gì với Mẹ, Chúa muốn mời gọi Mẹ thực hiện điều gì ? Vì
thế, ngay sau đó, sứ thần mặc khải điều Thiên Chúa mời gọi Mẹ thực hiện :
« Này đây, bà sẽ thụ thai… ». Có lẽ chúng ta cũng vậy, khi Chúa đến
ngỏ lời với chúng ta, một lúc nào đó trong quá khứ và nhất là trong những biến
cố quan trọng của hành trình ơn gọi ; chúng ta cũng bối rối và tự
hỏi : tại sao Chúa lại chọn con, tại sao Chúa ưu ái với con cách nhưng
không như vậy ? Chúa mời gọi con làm gì ?
b. Bước thứ hai (c. 30-34)
Sứ thần xác chuẩn ơn huệ nhưng không Chúa ban cho Mẹ : « Bà được
đẹp lòng Thiên Chúa », và sau đó, loan báo sứ mạng mà Thiên Chúa muốn trao
cho Mẹ : « Này đây bà sẽ thụ thai… ». Như thế, ơn huệ luôn đi
đôi với sứ mạng ; và đó chính là cung cách hành xử của Thiên Chúa trong
lịch sử cứu độ, trong lịch sử Hội Dòng và trong hành trình ơn gọi của mỗi người
chúng ta.
Sứ mạng thụ thai, hạ sinh con trai, vốn là « Con Đấng Tối Cao »,
là sứ mạng quá lớn, lớn hơn tất cả những gì Mẹ có và Mẹ là. Vì thế, Mẹ không
thể không nêu câu hỏi, và câu hỏi của Mẹ chất chứa một ngăn trở, cũng rất
lớn : « Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ
chồng ? » Chính ở nhịp thứ hai này của cuộc đối thoại, mà chúng ta
cảm nhận được Đức Mẹ thật sống động, thật mạnh mẽ và cũng thật lý sự nữa. Vì
thế, Mẹ thật gần gũi với chúng ta, vì can đảm đặt câu hỏi, nêu ra khó khăn và
trở ngại đối với lời mời gọi của Thiên Chúa.
Còn có một điều bất ngờ lớn lao nữa, mà chắc chắn lúc này, Mẹ chưa hình
dung ra hết được, bởi vì Mẹ sẽ phải khám phá ra từ từ, đó là cách Đức Giê-su
trở nên cao cả, trở nên Con Đấng Tối cao, và nhất là cách Ngài thừa kế ngai
vàng vua Đa-vít. Biến cố Đức Giêsu giáng sinh trong máng cỏ, việc dâng Hài Nhi
cho Đức Chúa trong Đền Thờ và nhất là lời tiên tri của ông cụ Simeon :
« một lưỡi gươn sẽ đâm thâu tâm hồn bà », sẽ hướng Mẹ tới con đường
Thập Giá của Con Mẹ.
Sứ mạng Chúa muốn trao cho chúng ta, khi mời gọi chúng ta đi Đức Ki-tô
trong đời sống dâng hiến, luôn luôn vượt qua khả năng của chúng ta. Như khi Đức
Giê-su mời gọi : « Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi ». Hay như
kinh nghiệm của Thánh Phaolô : « Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát
khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi: Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì
sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối » (2Cr 12, 8-9).
Mẹ thật gần gũi với chúng ta, vì can đảm đặt câu hỏi, nêu ra khó khăn và trở
ngại đối với lời mời gọi của Thiên Chúa. Chúng ta cũng được Chúa ban ơn huệ để
thi hành sứ mạng, chúng ta hãy ca đảm, giống như Mẹ, dãi bày cho Chúa nghe
những khó khăn và trở ngại của chúng ta : « việc ấy xẩy ra thế nào
được ? »
c. Bước thứ ba (c. 35-37)
Sứ thần rất coi trọng ngăn trở mà Đức Mẹ nêu ra ; vì thế, để thuyết
phục, ngài đã không dựa vào điều gì khác, ngoài quyền năng riêng của Thiên
Chúa. Chúng ta hãy dừng lại thật lâu để suy niệm từng lời của sứ thần. Vì lời
của sứ thần rất thuyết phục, thuyết phục đến độ, Đức Maria đã thốt ra lời
« Xin Vâng » liều lĩnh, hướng đến rất nhiều thách đố, nguy nan và
những điều bất ngờ. Trước hết, theo lời của Sứ Thần, Người Con Mẹ sẽ cưu mang
và sinh ra, là hoàn toàn do quyền năng của Thiên Chúa và thuộc về Thiên
Chúa : « Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, … ». Làm phát sinh sự
sống, ở nơi mà loài người không thể làm gì được, đó chính là quyền năng sáng tạo
của Thiên Chúa.
Sứ thần Gabrien đến gặp Đức Maria, vào thời điểm bà Elizabeth có thai được
sáu tháng ; vì thế, trong lời đối thoại với Đức Mẹ, sứ thần long trọng nêu
ra trường hợp bà Elizabet để thuyết phục Đức Mẹ. Sự kiện bà Elizabet với cung
lòng vừa hiếm muộn và vừa già cỗi nhưng lại mang thai, có ý nghĩa đặc biệt
trong lời xin vâng của Mẹ và trong mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên
Chúa :
- Trường hợp bà Elizabet nhắc nhớ Lịch sử cứu độ ; và lời xin vâng của
Mẹ đặt trên nền tảng hành động của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ.
- Lời xin vâng của Mẹ làm cho lịch sử cứu độ được hoàn tất : hoàn tất
bao gồm hai chiều kích : liên tục nhưng mới mẻ.
- Người con bà Elizabet sinh ra sẽ gắn bó đến cùng với Người Con Mẹ Maria
sinh ra.
Như thế, Thiên Chúa có khả năng làm phát sinh sự sống ở nơi mà con người
không còn hi vọng gì và không thể làm gì được nữa, bởi vì hai ông bà vừa hiềm
muốn và vừa lớn tuổi. Và tuyệt tác này lại nhắc nhớ những tuyệt tác tương tự
khác trong lịch sử cứu độ, đó là trường hợp các phu nhân hiếm muộn của các tổ
phụ, mà vẫn cứ sinh con được, và tiêu biểu nhất là bà Sara, vợ của tổ phụ
Abraham. Với Đức Maria, đó cũng là một tuyệt tác, nhưng là một tuyệt tác còn
lớn hơn và là duy nhất: Mẹ sinh con không phải từ cung lòng già cỗi hay hiếm
muộn, nhưng là từ cung lòng trinh nguyên. Các Giáo Phụ nhìn ra đây là hình ảnh
diễn tả công trình sáng tạo của Thiên Chúa, bởi vì lúc khởi đầu, Thiên Chúa
cũng làm phát sinh sự sống từ mặt đất trinh nguyên. Đó là vì, đối với Thiên
Chúa, không có gì là không thể làm được. Và đây đã là Tin Mừng cho loài người
của chúng ta rồi : đó là Thiên Chúa có thể làm phát sinh sự sống, và làm
phát sinh sự sống viên mãn là Đức Kitô, ở nơi mà con người không còn hi vọng
gì, ở nơi là tuyệt đối không thể đối với con người. Như thế mầu nhiệm Vượt Qua đã
được loan báo ở đây rồi, nơi biến cố truyền tin, bởi vì Thiên Chúa sẽ làm trào
vọt sự sống từ sự chết, trong mầu nghiệm Thương Khó và Phục Sinh của Đức Ki-tô.
Chúng ta được mời gọi nhận ra hành động của Thiên Chúa trong lịch sử của
Hội Dòng, của Tu Hội, của giáo xứ chúng ta, trong gia đình, trong cuộc đời và
trong hành trình ơn gọi của chúng ta, để chúng ta có thể đi theo Đức Ki-tô và
phục vụ cho sứ mạng của Ngài, không phải bằng sức lực và khả năng của chúng ta,
nhưng quyền năng và sức mạnh của Chúa.
Và biến cố Truyền Tin cũng bày tỏ cho chúng ta yếu tính của đời tu: đó là
để cho Thiên Chúa làm phát sinh sự sống thần linh của Người, theo hình ảnh của
Đức Ki-tô, ở nơi không thể, là thân xác trinh nguyên của chúng ta, theo cách
thức mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Đức Maria. « Trinh nguyên », tiên
vàn theo nghĩa thiêng liêng. « Trinh nguyên », tiên vàn theo nghĩa
thiêng liêng (bởi vì trinh nguyên thể lý tuyệt đối là không thể và chỉ là vẻ bề
ngoài), nghĩa là một con tim khát khao dành trọn cho một mình Chúa và tình yêu
của Người.
3. « Xin
vâng » (c. 38)
Trong bản văn Hi-lạp của trình thuật Truyền Tin, thật ra không có từ
« xin vâng », hay từ « vâng » trong bản dịch Tiếng Việt ở
đây, nhưng chỉ có câu trả lời của Đức Mẹ : « Tôi đây là nữ từ của
Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói » hay dịch sát
hơn : « Tôi đây là nữ tì của Chúa, hãy xảy ra cho tôi theo như lời Sứ
Thần ». Ngoài ra, « Xin Vâng » còn được đọc theo tiếng La-tinh
là « Fiat » ; nhưng thực ra, « Fiat » có nghĩa là
« ước gì xẩy ra », hoặc « hãy xẩy ra », cho tôi theo như
lời của ngài. Vì thế, chúng ta vẫn cứ tiếp tục nói Đức Mẹ thưa « Xin
Vâng », nhưng phải hiểu tiếng « Xin Vâng » của Mẹ là cả một câu
trả lời khá dài và đầy ý nghĩa.
Thật vậy, trong lời « Xin Vâng », Mẹ tự xưng mình là « nữ
tì ». Chúng ta thường nghĩ ra nhiều tước hiệu cao vời dành cho Đức
Maria ; nhưng Mẹ lại thích tự xưng mình, trong biến cố Truyền Tin và trong
bài ca bất hủ Magnificat, là
« Nữ Tì của Chúa » (Lc 1, 38), là « Phận nữ tì hèn mọn ».
Chúng ta được mời gọi dõi theo một Đức Maria như thế đó. Không ở đầu ngoài lời
nói này của Mẹ, chúng ta cảm thấy thật gần gũi với Mẹ. Vì chúng ta cũng như Mẹ,
là nữ tì, là tôi tớ của Thiên Chúa. Sau đó, Mẹ nói « Hãy xảy ra cho tôi
theo như lời của Sứ Thần nói ». Chúng ta hãy cảm nếm lòng tín thác tuyệt
đối Mẹ dành cho Chúa qua lời nói này, bởi vì qua lời này, Mẹ cam kết từ bỏ
quyền làm chủ đời mình ; và đó chính là ý nghĩa tận cùng của mọi ơn gọi,
và nhất là của ơn gọi dâng hiến.
Chúng ta được mời gọi đặt lời « xin vâng » của chúng ta, khi đón
nhận Đức Ki-tô vào cuộc đời chúng ta và sống theo ơn gọi Chúa ban, trong lời
« Xin Vâng » của Đức Mẹ. Cũng giống như Đức Mẹ, tiếng xin vâng ban
đầu của chúng ta cần phải làm mới lại suốt đời, nhất là ở những khúc quanh quan
trọng và trong thời gian tĩnh tâm, hay ở những lúc khó khăn thử thách lớn nhỏ
trong hành trình ơn gọi. Trong những giai đoạn khó khăn thử thách lớn, có khi
chúng ta được mời gọi thưa « xin vâng » mỗi ngày, bằng cách nhận lời
« Xin Vâng » của Mẹ làm của mình, và lời « Xin Vâng » này
có nghĩa là : « Con là nữ tì của Chúa, xin xảy ra cho con theo như
Lời của Ngài. »
* *
*
Xin Đức Mẹ đồng hành và phù hộ chúng ta với tình yêu hiền mẫu, để chúng ta
cũng sống đến cùng lời « xin vâng » của chúng ta, giống như Mẹ ;
và cùng với Giáo Hội trong lời nguyện của Giờ Kinh Sáng hôm nay, chúng ta thân
thưa với Chúa :
Như Đức Mẹ là bà Eva
mới
đã vâng nghe Lời Chúa,
xin thực hiện những gì Chúa muốn làm cho chúng con.
Vì lời Đức Mẹ chuyền
cầu,
xin Chúa thương nhận lời chúng con.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc