Suy Niệm Lời Chúa
Thứ Năm Tuần XXXI Thường Niên Năm C
« Giữa
triều thần Thiên Chúa,
ai nấy sẽ vui mừng… »
Lời Chúa: Lc 15,
1-10
(1) Tất cả
những người thu thuế và những người tội lỗi thường đến gần Ðức Giêsu mà nghe
Người. (2) Còn những người thuôc phái Pharisêu và các kinh sư thì
lẩm bẩm: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng". (3)
Ðức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này:
(4) "Người
nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín
mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? (5)
Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. (6) Về đến nhà, người ấy
mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm
được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó". (7) Vậy, tôi nói
cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn
năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối
ăn năn.
(8) "Hoặc
người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không
thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được? (9) Tìm được rồi,
bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã
tìm đuợc đồng quan tôi đã đánh mất". (10) Cũng thế, tôi nói cho
các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi
ăn năn sám hối".
Suy Niệm:
1. Khinh chê
Vào thời của Đức Giê-su, có những người bị coi là tội
nhân một cách công khai : vì họ có một thứ nghề nghiệp bị mọi người coi là
xấu, chẳng hạn nghề thu thuế như ông Gia-kêu, hoặc vì họ có đời sống luân lí không
tốt, chẳng hạn người phụ nữ bị mọi người coi là «người tội lỗi trong thành» (Lc
7, 37) hay vì họ không giữ những nghi thức hay qui định đạo đức, chẳng hạn các
nghi thức thanh tẩy, ăn chay, ngày sa-bát…. Họ bị mọi người khinh chê, nhất là
các người Pha-ri-sêu và luật sĩ.
Ngày nay, người ta không còn tùy tiện dán nhãn tội nhân
vào người này người kia nữa, nhưng sự khinh chê vẫn còn nguyên, trong cung cách
ứng xử giữa người với người. Thật vậy, chúng ta vẫn còn kinh chê nhau, vì sự
yếu kém, nhỏ bé, giới hạn, thiếu khả năng, tuổi tác, hoàn cảnh gia đình xã hội,
ngoại hình… Thân phận làm người tự nó đã nặng nề, nhưng thay vì gánh vác cho
nhau hay làm cho nhẹ đi, chúng ta lại luôn tìm cách chồng chất thêm cho nhau
hay tự làm cho thân phận của mình nặng thêm. Thánh Phao-lô trong thư Roma chấn
vấn chúng ta: «Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho
Chúa… Thế mà bạn, sao bạn lại xét đoán người anh em ? Và bạn nữa, sao bạn
khinh dể người anh em ?» (Rm 14, 8.10).
2. Đức Giê-su và những người tội lỗi
Chúng ta hãy trở lại với Lời
Chúa trong bài Tin Mừng để nhìn ngắm cách Đức Giê-su đón
tiếp những người tội lỗi, những người yếu kém, những người nhỏ bé: họ đến để
lắng nghe Ngài; và Ngài không chỉ đón tiếp họ, nhưng còn dùng bữa với họ. Đón
tiếp và dùng bữa với ai, đó chính là làm bạn, thậm chí trở nên một với người
đó. Chúng ta hãy hình dung ra khung cảnh Đức Giê-su ở giữa những người tội lỗi, bởi vì hình ảnh
này rất đánh động và an ủi đối với chúng ta.
Trong Thánh Lễ, Đức Giê-su tiếp
tục ban lời của Ngài cho chúng ta, vốn là những người tội lỗi, yếu kém và nhỏ
bé, và còn hơn cả việc dùng bữa với chúng ta, Ngài tự biến thành lương thực
nuôi dưỡng chúng ta cho sự sống hôm nay và sự sống muôn đời.
Kinh nghiệm được đón tiếp bởi
Đức Giê-su, khi mà chúng ta vẫn còn là tội nhân, yếu kém và nhỏ bé, chính là
động lực để chúng ta cũng có thể đón tiếp người khác, như họ là. Kinh nghiệm
này cũng làm cho có thể ra khỏi chính mình để đi vào niềm vui lớn lao của Thiên
Chúa và các Thiên Thần của Ngài trên trời.
3. Các dụ ngôn
Để thay đổi hình ảnh lệch lạc của chúng ta về thái độ của
Thiên Chúa đối với các tội nhân, và để giải thích tại sao Ngài không chỉ tiếp
đón những người tội lỗi, mà con ăn uống với họ nữa, nghĩa là còn ngài kết bạn
với họ, Đức Giê-su kể «một hơi» ba dụ ngôn : dụ ngôn con chiên, dụ ngôn
đồng bạc và dụ ngôn người cha có hai người con (Lc 15, 4-32). Và trên Thập Giá,
Ngài còn đi xa hơn, khi để cho mình bị bắt và bị lên án như là tội nhân và chịu
chết giữa các tội nhân.
Bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay kể lại hai dụ ngôn đầu
tiên, nhưng chúng ta nên hiểu cả ba dụ ngôn cùng nhau, vì các dụ ngôn soi sáng
cho nhau và nêu bật khía cạnh đặc biệt của mỗi dụ ngôn. Thật vậy, ba dụ ngôn có
một thứ tự đặc biệt khiến chúng ta phải chú ý: 100 con chiên trong đó có một
con bị mất; 10 đồng quan, có một đồng bị mất, và 2 người con, một người bị hư
mất. Như thế, xét về con số, sự mất mát càng lúc càng lớn : một trên một
trăm, một trên mười và một trên hai; hơn nữa, xét về điều bị mất, ban đầu là
con vật, sau đó là đồng tiền, và trường hợp thứ ba là một người con, mà người
con thì vô giá.
Và ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm này, giá trị mất
mát càng lớn, thì niềm vui sẽ càng lớn, khi tìm lại được. Chính vì thế, người
cha, khi mở rộng vòng tay đón nhận người con hư mất trở về, đã mở tiệc ăn mừng;
trong khi với trường hợp con chiên và đồng tiền tìm lại được, người ta chỉ chia
sẻ tin vui thôi, với bạn bè và hàng xóm.
Tuy nhiên, cả ba dụ ngôn có một sứ điệp khác đánh động
chúng ta không kém: đó là sự quan tâm của Thiên Chúa đối với từng người trong
chúng ta, như thể, chúng ta là duy nhất, là quí nhất là yêu nhất, trong con mắt
của Chúa. Và dụ ngôn đầu tiên làm bật lên sự điệp này một cách rạng ngời
nhất :
Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một
con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ
được con chiên bị mất.
(c. 4)
Dụ ngôn đến từ đời thường, nhưng một khi thốt ra từ miệng
Đức Giê-su, lại chứa đựng nhiều điều bất thường (tương tự như các dụ ngôn
khác): (1) Bỏ chín mươi chín con lại nơi đồng hoang ; (2) Vác con chiên
lạc trên vai, khi tìm thấy; (3) và niềm vui quá lớn và lan tỏa, so với con
chiên nhỏ bé được tìm lại, như thể đó là con chiên duy nhất, và như thể chín
mươi chín con kia không hiện hữu !
Ba điểm bất thường diễn tả cho chúng ta một cách tuyệt
vời về tình yêu Thiên Chúa mà Thánh Tâm Chúa Giê-su (đây là bài Tin Mừng của
ngày lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su, năm C) muốn diễn tả :
Thiên Chúa quan tâm đến từng người
chúng ta, như thể mỗi người chúng ta là duy nhất. Đó chính là đặc điểm của tình
yêu, nghĩa là tương quan giữa một ngôi vị với một ngôi vị. Và chỉ khi, có một
con chiên đi lạc, đặc điểm này mới được tỏ lộ ra. Vì thế, kinh nghiệm « đi
lạc » sẽ là cơ hội giúp chúng ta nhận ra đặc điểm này của tình yêu Thiên
Chúa !
Người mục tử không trách móc, la mắng
xử phạt, giống như người cha chạy ra ôm người con trở về « hôn lấy hôn
để » (x. Lc 15, 20). Bởi vì sự hiện diện của người con « đã
chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy (c. 24), là tất cả và là dư đủ để lất át tất cả, bù đắp
tất cả và làm cho hi vọng. Đó là bởi vì, tình yêu
luôn đi đôi với bao dung tha thứ. Đặt vào trong bối cảnh của dụ ngôn, người tội
lỗi được tượng trưng bởi hình ảnh con chiên đi lạc. Điều này thật an ủi cho chúng
ta, vì dưới mắt Chúa, chúng ta là những con chiên đi lạc, phải đi tìm về cho kì
được, và Thiên chúa đi tìm mỗi người chúng ta nơi Đức Giê-su. Chúng ta hãy nhìn
mình như là Chúa nhìn; và chúng ta hãy là con chiên đi lạc mong được tìm thấy
và được mang về. Thay vì tự biến mình thành con dê nổi loạn, con sói phá hoại.
Tình yêu bao dung tha thứ mang lại niềm
vui, và niềm vui lan tỏa sang nhiều người, sang tất cả mọi người, trên trời
cũng như dưới đất.
* * *
Xin cho chúng ta nhận ra tình yêu Thiên Chúa dành đích
thân cho từng người chúng ta như là « Đối Tượng Duy Nhất » trong Đức
Ki-tô, để chúng ta có thể yêu mến Người như là « Đối Tượng Duy Nhất »
của lòng trí chúng ta. Và thực vậy, dù chúng ta là ai, ở trong tình trạng nào, mỗi người chúng ta đều là :
« Người môn đệ Đức Giê-su thương mến », vì chúng ta xác tín cùng với
thánh Phao-lô rằng :
Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ
lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm
hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi
tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta. (Rm 8, 38-39)