CHỦ NHẬT 5 PHỤC SINH
Vì ưu tư tìm cách củng cố Đức tin, chúng ta đề ra nhiều phương pháp, tổ chức nhiều lớp học hỏi..vv.. Nhiều đến nỗi chúng ta quên rằng tất cả những cái đó chỉ là phụ thuộc. Sứ mạng thiết yếu của chúng ta chính là làm cho mọi người thấy được Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa và hướng về Người. Chỉ có Tình yêu mới có thể là dấu chỉ hướng về Chúa và giúp người ta nhận biết Người.
Sách Công vụ 14,21b-17
Từng bước từng bước, Tin mừng khởi từ Giê ru sa lem bành trướng ra thế giới. Những người dân ngọai cũng đã tiếp nhận đức tin. Nhiều cộng đoàn mới được tổ chức dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Ở Antiôkia, điểm khởi đầu của Sứ mạng truyền giáo, người ta cảm tạ Chúa vì sự lan truyền mạnh mẽ của Tin Mừng.
Thánh Vịnh 144
Chúng ta hãy ý thức rằng các cộng đòan rải rác trong khắp các châu lục cùng với chúng ta cất tiếng hát mừng ca tụng các kì công của Chúa, Thiên Chúa của Hoàn vũ.
Sách Khải Huyền 21,1-5a
Thánh Gioan tác giả cho thấy cuộc chiến thắng cuối cùng của Thiên Chúa. Cuối cùng, Thiên Chúa có thể hoàn tất Công trình của Người: việc Tạo dựng một Thành đô tỏa sáng, trong đó Dân ưu tuyển sẽ gặp Thiên Chúa của mình. Ở mút cùng của Lịch sử, Người sẽ cho một thế giới hoàn hảo phát sinh. Còn Hội Thánh ngày nay chỉ là một bản phát họa. Thiên Chúa sẽ đổi mới mọi sự.
Tin mừng Ga 13,31-35
NGỮ CẢNH
Đoạn 13 mở đầu phần chóp đỉnh trong Tin Mừng Gioan, được gọi là « Giờ của Chúa Giê su », bao gồm 3 phần: trình thuật về bửa ăn cuối cùng của Chúa Giê su với các môn đệ (13-17); trình thuật Thương khó (18-19), và trình thuật Phục sinh (20-21). Bài Tin mừng của chúng ta nằm trong đoạn 13,31-14,31 ghi lại những lời từ biệt của Chúa Giê su ngỏ với các môn đệ. Nó gồm những câu mở đầu (31-35) có thể được khảo sát như là một đơn vị văn chương độc lập, tự nó có ý nghĩa, kết thúc bằng lời mời gọi ra đi (14,31), có thể được xem như là kết luận cho phần thứ nhất.
Nội dung thuật lại lời Chúa Giê su nói về ý nghĩa sự ra đi của Ngài, và di sản Ngài để lại.
TÌM HIỂU
Giờ: khi Giu đa đi khỏi, bắt đầu biến cố Khổ Nạn. Trong lời tuyên bố long trọng của Chúa Giê su, cô động toàn bộ mầu nhiệm Phục sinh. Và tại đây, Gioan đã nhìn thấy ngay sự tôn vinh của Chúa Giê su.
Được tôn vinh: x. 12,28. Vinh quang vốn là ưu phẩm của Thiên Chúa sẽ bừng sáng trong sự phục sinh, phản chiếu trên Chúa Giê su ngay cả trong cái chết. Việc Chúa Giê su tự phó mình cho Thiên Chúa Cha đã mang lại vinh quang cho Người; còn Thiên Chúa Cha, để đáp lại, sẽ tôn vinh nhân tính của Ngài trong sự phục sinh. Vậy cuộc khổ nạn sẽ mạc khải cho các môn đệ biết Chúa Giê su là ai, và đâu là mối tương quan với Thiên Chúa. Trong khi con người tự xa lìa Thiên Chúa vì tội lỗi, thì Thiên Chúa sẽ đem nó về với Người tràn đầy vinh quang.
Con bé nhỏ: từ trong tiếng Hi lạp chỉ được dùng ở đây trong sách Tin Mừng, có giá trị như một từ giảm nghĩa để chỉ sự thân mật. Chúng ta gặp thấy nhiều lần trong thư thứ nhất thánh Gioan (2,1.12.28).
Thầy cũng nói: (x. 7,33-36; 8,21). Người Do thái sẽ tìm cách giết Chúa Giê su nhưng sẽ không thể đạt tới Ngài trong vinh quang của Chúa Cha. Trái lại, các môn đệ tìm kiếm ngài một cách vô ích trong mầu nhiệm sự chết, nhưng họ sẽ tìm thấy ngài sống lại.
Một điều răn mới: Điều răn của Chúa Giêsu là mới, không theo nghĩa là chưa bao giờ hiện hữu, nhưng theo nghĩa chưa từng thấy, không bao giờ chấm dứt, không có giới hạn. Không còn là vấn đề chỉ yêu người lân cận như chính mình nữa (Lv 19,18; Mc 12,31), nhưng là yêu như Chúa Giêsu đã yêu.
Mọi người sẽ nhận biết: Hội Thánh có sứ mạng là trở nên một mạc khải về Chúa Giê su. Ngang qua đức ái của các phần tử của mình, Hội Thánh sẽ cho thấy mình giống với Ngài, và do đó, sự kết hợp với Chúa Giêsu (x. 17,21).
SỨ ĐIỆP
Bài tin mừng hôm nay nhắc chúng ta điều răn quan trọng nhất là tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân.
Chúa Giêsu dự bữa ăn tối cuối cùng với nhóm Mười Hai, hôm trước ngày chịu chết. Ngài vừa thiết lập bí tích Thánh Thể là bữa ăn Vượt qua của ngài. Ngài cũng vừa rửa chân cho các môn đệ, kể cả Giu đa, sắp sửa phản bội Ngài. Trước khi vượt qua thế gian để về cùng Cha, Ngài muốn để lại cho họ một gương mẫu tuyệt vời về lòng khiêm nhường và phục vụ.
Chúa Giê su vừa loan báo rằng một trong các môn đệ sẽ phản bội Ngài. Đó là người mà Ngài trao cho một miếng bánh. Sự phản bội nầy khởi động một tiến trình sẽ dẫn Chúa Giê su đến cuộc Khổ nạn cho đến chết trên thập giá. Đàng khác, chính Ngài cảnh giác và loan báo cho các môn đệ biết tình thế sẽ đảo ngược: “Bây giờ, Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Ngài”. Dù không được các môn đệ hiểu, nhưng Lời ấy của Chúa Giêsu là nền tảng. Thật thế, sự tôn vinh chính là sự tỏ hiện rõ ràng tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân lọai, qua cái chết và sự Phục sinh của Ngài
Chính trong mạch văn long trọng ấy mà Chúa Giêsu trao cho các môn đệ điều răn của Ngài: “Như Thầy đã yêu thương anh em, anh em hãy yêu thương nhau. Và Ngài xác định rằng đó là một điều răn mới. Điều răn ấy cũng đã hiện diện trong các tôn giáo khác. Người ta cũng đã dạy yêu thương người khác và cả thù địch. Cả Thánh Kinh Cựu Ước cũng đã nói đến điều răn yêu thương Thiên Chúa và tha nhân, và được triển khai bằng muôn ngàn điều luật và qui định phụ thuộc khác. Lấy cớ yêu mến Thiên Chúa, người ta đã quên anh em mình.
Điều làm cho điều răn ấy nên mới mẻ chính là việc Chúa Giê su đã đặt nó lên hàng đầu. Tình yêu tha nhân trở thành một điều răn giống với tình yêu Thiên Chúa. Chúa Giê su gán cho nó tầm quan trọng đặc biệt trong giáo huấn của Ngài. Ngài coi tình yêu hai mặt ấy như là sự hoàn tất giáo huấn của Ngài, là điểm đến hoàn tất mọi lề luật. Hơn nữa, tha nhân mà ta phải yêu mến không chỉ là những người đồng đạo như ta, mà là tất cả mọi người, được coi như anh em, vì là con cùng một Cha trên trời.
Sự mới mẻ căn bản của điều răn yêu thương, đó chính là yêu thương theo cách của Chúa Giê su, với cùng một lòng khiêm nhu và tinh thần phục vụ như Ngài. Người môn đệ Chúa Giê su không được quên lời Ngài dặn: không có tình yêu nào lớn hơn là thí mạng mình cho kẻ mình yêu thương (Ga 15,13). Vì thế, yêu thương như Chúa Giê su, chính là thí mạng cho người mình yêu thương. Dấn thân không thôi chưa đủ, cần phải đón nhận tình yêu ấy như một quà tặng từ Ngài. Do đó, chúng ta phải cầu xin, vì nếu không, thì giới răn yêu thương trở thành một sứ mạng không thể thực hiện được.
Ngày hôm nay, Chúa Giê su mang lại cho chúng ta một điều chỉnh vô cùng cần thiết. Ngài nói với chúng ta rằng tình yêu ấy là một dấu chỉ giúp người khác nhận ra người ki tô hữu. Dấu chỉ cho thế gian biết rằng chúng ta là môn đệ của Ngài chính là tình yêu mà chúng ta dành cho nhau. Nếu không có điều đó, chúng ta sẽ đưa ra một hình ảnh méo mó về đức tin và Hội Thánh của chúng ta. Đời sống của chúng ta sẽ trở thành một phản chứng.
Tình yêu mà Chúa đang chờ đợi chúng ta, phải có tính phổ quát. Nó nhắm đến tất cả mọi người trên thế gian. Một tình yêu không lọai trừ ai. Yêu thương mọi người không làm cho chúng ta quên những người ở gần chúng ta nhất, cùng chia ngọt sẻ bùi với chúng ta, những người mà chúng ta có nhiệm vụ đồng hành, che chở và đem lại hạnh phúc. Dấn thân cộng tác và làm việc trong những hiệp hội bác ái phục vụ người nghèo nhất, chống lại bất công xã hội, đó là một cách thức tuyệt vời đáp lại đòi hỏi của Đức Ki tô.
Người ki tô hữu phải yêu thương nhau đó là một điều tuyệt đối quan trọng. Một cộng đòan không hợp nhất chỉ đưa ra một chúng tá tầm thường. Trong những trường hợp ấy, sứ điệp tin mừng không được thể hiện. Chỉ có những người ki tô hữu nào yêu thương nhau như Đức Ki tô yêu thương họ mới có thể tỏa sáng tin mừng. Chính tình yêu đó sẽ cho thế gian thấy rằng chúng ta là môn đệ của Đức Ki tô. Vấn đề không phải là trình diễn cho người ta thấy, mà là tiếp nhận chính Chúa Giê su.
Khi cử hành tiệc Tạ ơn và thông hiệp với Thân thể duy nhất của Đức Ki tô, chúng ta cầu xin cho Đức Ái được rạng ngời trong chúng ta và giữa chúng ta. Chỉ với điều kiện đó chúng ta mới có thể làm chứng cho Nước Chúa mà Ngài đến để thiết lập. Chúng ta đến kín múc tận nguồn để rồi ra đi vào sứ vụ đầy sức mạnh và tin tưởng. Xin Chúa ban cho chúng ta sự can đảm cần thiết để từ lời đi đến hành động. Đừng bao giờ quên rằng chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu.
ĐÀO SÂU
1. HỎI: Bài đọc một nói về điều gì?
THƯA: Bài đọc một kể lại lúc kết thúc cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất của Phao lô và Barnaba. Trên đường trở về, Phao lô và Barnaba củng cố đức tin những người tín hữu, tổ chức cộng đoàn mà các ngài vừa mới thành lập. Đặc biệt, các ngài đặt hàng niên trưởng làm lãnh đạo giáo đoàn. Khi về đến Antiôkia, hai ông vui mừng kể lại những việc mà Thiên Chúa đã làm để mở cửa Giáo Hội cho các dân ngoại.
2. HỎI: Hàng niên trưởng ấy được tổ chức như thế nào?
THƯA: Hàng niên trưởng không được cộng đoàn bầu lên, nhưng được các tông đồ chọn lựa, và dường như có cấu trúc như Hội thánh ở Giê ru sa lem (Cv 11,30; 15,2, 5, 22; 1,18)
3. HỎI: Tại sao bài đọc nhấn mạnh đến việc ăn chay cầu nguyện (c23)?
THƯA: Sau khi thiết lập hàng kì mục cho các giáo đoàn, Thánh Phao lô cũng không quên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cầu nguyện và ăn chay, vì một người tông đồ không cầu nguyện thì không thể rao giảng Đức Ki tô được.
4. HỎI: “Hai ông phó thác những người đó cho Chúa” có nghĩa gì?
THƯA: Các ông phó thác các kì mục cho Chúa vì các ông hiểu rằng, sứ mạng mà các ông thi hành không phải là công việc riêng của mình nhưng là ơn Thiên Chúa ban, vì thế các Ngài phó thác cho Thiên Chúa các kì mục mà các Ngài vừa đặt trên các công đoàn mới.
5. HỎI: Tại sao thánh Lu ca nhấn mạnh:“Những gì Thiên Chúa đã cùng làm với hai ông”?
THƯA: Vì Ngài muốn nhấn mạnh rằng: sứ mạng mà Thiên Chúa giao cho người tín hữu là không phải của riêng Thiên Chúa, hay của riêng con người, nhưng là công việc chung: Thiên Chúa sẽ không ngừng hỗ trợ, nâng đỡ, củng cố những người Ngài đã chọn.
6. HỎI: “Cánh cửa đức tin” là gì?
THƯA: “Cánh cửa đức tin” là hình ảnh cũng được Thánh Phao lô dùng trong thự 1 Cr 16,9 và 2 Cr 2,12. Ở đây nó chỉ việc Thiên Chúa cho người ngoại tiếp cận ơn cứu rỗi ngang qua việc rao giảng của các tong đồ.
7. HỎI: Bối cảnh của bài tin mừng như thế nào?
THƯA: Bài tin mừng được trích từ lời nói chuyện của Chúa Giê su trong bữa ăn cuối cùng với các tông đồ. Ngài nói những lời nầy sau khi đã tiên báo người môn đệ phản bội Ngài và trước khi rời phòng tiệc để vào vườn Giết sẽ ma ni.
8. HỎI: “Vinh quang” là gì?
THƯA: Trong Kinh thánh, vinh quang (tiếng Híp pri là kabôd chỉ trọng lượng, giá trị, tầm quang trọng; Hi lạp là doxa chỉ uy tín) chỉ phẩm cách, uy tín, thế lực, ảnh hưởng và quyền năng của nhân vật nào đó.
9. HỎI: Tôn vinh là gì?
THƯA: Tôn vinh diễn tả mối tương quan hỗ tương qua những cách thế khác nhau giữa Chúa Cha và Chúa Giê su trong cuộc sống trần thế của Ngài. Do đó Chúa Giê su được tôn vinh có nghĩa là nhờ vâng phục Thiên Chúa Cha trong cái chết Vượt qua trên Thập giá, Ngài đã nhận được vinh quang Thiên Chúa Cha dành cho Ngài.
10. HỎI: Chúa Giê su tôn vinh Thiên Chúa Cha bằng cách nào?
THƯA: Chúa Giê su tôn vinh Cha bằng cách trung thành thực hiện công trình cứu thế mà đỉnh cao là thập giá (17,4). Ngài tìm kiếm vinh quang cho Đấng đã sai Ngài đến (7,18) qua các phảp lạ (11,4.40). Và sau khi về cùng Cha, trong suốt thời gian Giáo Hội, Chúa Giê su tiếp tục tôn vinh Cha bằng cách ban sự sống cho những người mà Cha giao phó cho Ngài (17,2).
11. HỎI: Tại sao khi Giu đa đi ra, Chúa Giê su nói: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh”?
THƯA: Việc Giu đa phản bội Chúa Giê su luôn được xem như là khai mào cuộc Khổ nạn đưa đến cái chết Thập giá mang lại ơn cứu độ cho loài người. Do đó, việc Giu đa bội phản theo một ý nghĩa nào đó, đã làm cho Thiên Chúa và Chúa Giê su được vinh hiển.
12. HỎI: “Con người được tôn vinh và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người”?
THƯA: Qua những cách diễn tả khác nhau về vinh quang, Chúa Giê su muốn nói đến tương quan qua lại giữa Cha và Con, hoặc, sự kết hiệp nền tảng của Ngài với Cha: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” hoặc: “Thầy và Cha, chúng ta là một” (10,30). Nói rằng “Con Người được tôn vình và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Ngài” chính là nói rằng Con là phản ảnh của Cha.
13. HỎI: Tại sao giờ khổ nạn là lúc Chúa Giê su hoàn thành ơn gọi phản ánh Thiên Chúa Cha?
THƯA: Chính giờ phút đó là giờ vinh quang của Chúa Giê su, là lúc Ngài mạc khải cho thế gian biết tình yêu của Cha cao cả như thế nào.
14. HỎI: Tại sao giờ Khổ nạn, Chúa Giê su mạc khải cho mọi người biết tình yêu của Thiên Chúa Cha?
THƯA: Bởi vì trong giờ Khổ nạn, dù bị phản bội, bị mọi người rời xa và bách hại, mà Ngài vẫn kiên trì chịu đựng, yêu thương, tha thứ. Qua thái độ đó, Ngài mạc khải cho thế gian biết thế nào là tình yêu của Cha, một tình vô tận, không biên giới.
15. HỎI: Tại sao Chúa Giê su lại gọi các môn đồ là những “người con bé nhỏ của Thầy”?
THƯA: Thỉnh thoảng các Thầy Do thái gọi môn đệ của mình là “các con”và Chúa Giê su có lần cũng gọi các môn đệ là “các con” như trong Mc 10,24. Điều nầy cũng dễ hiểu vì Chúa Giê su thường khuyên bảo các môn đệ Ngài hãy sống như trẻ nhỏ (Mt 18,3; 19,4).
16. HỎI: Tại sao gọi là điều răn mới?
THƯA: Chúa Giê su không sáng tạo ra điều răn yêu thương, vì đó là điều đã có trong giáo huấn các thầy Rabbi đương thời. Yếu tố mới là yêu thương như Ngài, không chỉ theo cách của Ngài, nghĩa là đến độ sẵn sàng hiến cuộc sống mình, mà còn hơn thế nữa, là thực sự yêu thương như Ngài, nghĩa là hoàn toàn được hướng dẫn bởi Thần khí của Ngài.
17. HỎI: Giáo Hội sơ khai có sống yêu thương như lời Chúa Giê su dạy không?
THƯA: Có. Lịch sử Giáo Hội sơ khai là lời chú giải tuyệt hảo về lời dạy ấy. Sách Công vụ mô tả: “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung” (2,44). Tertulianô cũng kể lại những gì người ta nói về họ: “Kìa xem họ thương nhau biết bao và sẵn sàng hiến mạng sống cho nhau chừng nào!” (Apolog. 39; Pl 1,53a).