CHỦ NHẬT 22 THƯỜNG
NIÊN
Không
gì làm chúng ta lìa xa Thiên Chúa hơn sự khoe khoang và tìm kiếm vinh quang cho
chính mình. Nết xấu ấy đóng kín con người trong giới hạn của mình và đồng thời
dẫn đưa họ đến chổ tiêu diệt kẻ khác. Nó đi ngược lại với cách hành xử của
Thiên Chúa: Người mạc khải Vinh Quang, nghĩa là Tình yêu bằng cách tự xóa chính
mình. Phần chúng ta, trong chính sự tự xóa ấy chúng ta có thể khám phá ra sự
cao cả đích thực của mình.
Huấn ca 3, 17-18.20.28-29
Sách
Huấn ca cống hiến cho chúng ta hoa trái của suy tư về Lịch sử Dân Thiên Chúa
cùng lúc về kinh nghiệm của con người. Đó là việc lên án sự kiêu căng ngạo mạn
của con người. Sự cao cả đích thực được tỏ hiện trong sự Khiêm nhu của Con người
khiêm tốn mở rộng tâm hồn đón nhận sự Khôn Ngoan.
Thánh
Vịnh 67
Vinh
quang của Thiên Chúa đã được tỏ hiện trong cách mà Người đã tự đặt mình phục vụ
những người khiêm nhu. Như thế, cách hành xử tương tự sẽ giúp cho chúng ta được
lớn lên.
Hr 12,18-19.22-24a
Tác
giả của đoạn văn nầy cảm thấy bị đánh động bởi sự mâu thuẩn giữa cách Thần hiển
huy hoàng của Thiên Chúa trong Do thái giáo
và sự thể hiện mình một cách khiêm tốn nơi Chúa Giê su. Ông cũng nhấn mạnh
đến tất cả những khác biệt giữa một nền phụng tự được cử hành long trọng và nền
phụng tự đơn giản của ki tô giáo. Thế mà chính nền phụng tự nầy đã đưa con người
tiến gần cộng đoàn Các Thánh. Chúa Giê su dẫn chúng ta đến gặp Thiên Chúa trong
bầu khí hân hoan.
Tin mừng Lc 14,1a.7-14
NGỮ CẢNH
Thêm
một giáo huấn nữa trên hành trình đi lên Giê ru sa lem. Nhân khi dự một bữa tiệc
ở nhà thủ lãnh người Pha ri sêu, Chúa Giê su chữa một người mắc bệnh phù thũng (14,1-4).
Nhân đó, Ngài chất vấn họ về việc nghĩ ngày sa bát (14,5-6). Vì không ai trả lời,
nên Ngài bắt qua giáo huấn về việc chọn chỗ rốt hết trong khi dự tiệc
(14,7-11), và việc mời những người nghèo (14,12-14). Sau cùng, Ngài kể dụ ngôn
nói về bữa tiệc thời sau cùng: chủ nhà mời gọi mọi người, kể cả người nghèo, đến
dự tiệc, sau khi những người được mời trước đều từ chối đến dự (14,15-24).
TÌM HIỂU
Dùng
bữa: câu truyện nầy chỉ có trong Lu ca. Đây là bữa ăn thứ ba mà Chúa Giê su
dùng tại nhà một ngừoi Pha ri sêu. Điều nầy cho thấy Chúa Giê su tỏ ra lịch sự
với họ; nhưng những bữa ăn như thế nầy luôn luôn kết thúc bằng một cuộc tranh
luận (x. 7,36;11,37).
Dò
xét: chi tiết nầy cho thấy bầu khí không thoải mái của bữa tiệc.
Dụ
ngôn: ở mức độ đầu tiên của câu truyện, chúng ta tìm thấy một lời dạy về cách đối
xử ở đời (x. Cn 25,6-7). Nhưng lời dạy nầy trở thành một dụ ngôn khi người ta
nghĩ đến Thiên Chúa khi mời mọi người: trước lời mời ấy, người ta chỉ có thể
đáp trả bằng thái độ khiêm nhu. Câu truyện nầy chỉ có trong Luca và nhắc lại tiệc
cưới Giao Ước (5,35).
Ai
tôn mình lên: sự khiêm nhường giả dối có thể được khen ngợi trước mặt người
khác nhưng không thể qua mặt Thiên Chúa. Khiêm nhường là cửa hẹp dẫn đến ơn cứu
độ (13,24): bởi vì Thiên Chúa “dẹp tan những người kiêu căng” (1,51-52). Đức
tính nầy gần với sự nghèo khó (6,20). Chúng ta cũng đọc được câu nầy sau dụ
ngôn về người Pha ri sêu và người thu thuế (18,14), nhắm đề cao sự khiêm nhường trong đức tin.
Sẽ
bị hạ xuống: “Anh em hãy hạ mình trước mặt Chúa và Người sẽ cất nhắc anh em lên”
(Gc 4,10; x. 1Pr 5,5-6). Nhiều bạn hữu của Thiên Chúa sẽ sống đức khiêm nhường
cách thẳm sâu!
Những
người nghèo khó: câu nầy của riêng Lu ca và chuẩn bị cho dụ ngôn đi sau. Chúng
ta gặp lại ở đây bốn hạng người bất hạnh trong câu 21. Người nghèo không được mời
đi dự tiệc, cả trong xã hội Híp pri và trong xã hội Rô ma trong đó Lu ca đã sống.
Kính nhường họ có nghĩa là xem trọng họ về tư cách con người, chứ không phải vì
tiền của hay những đức tính bên ngoài. Chúa Giê su không ngừng mời gọi những
người không có hạnh phúc. Tiêu chuẩn của lòng bác ái là sự quan tâm vô vị lợi đến
những người đau khổ (x. 6,31-35).
Có
phúc: mối phúc của tình yêu hay thương xót, giống như Thiên Chúa: “Phần thưởng
các con sẽ trọng hậu và các con sẽ là
con của Đấng Tối cao” (6,35).
SỨ ĐIỆP
Chỗ rốt hết.
Bài
tin mừng kể lại một hôm, Chúa Giê su được mời dự tiệc. Ngài quan sát những gì
đang xảy ra. Những người được mời đi vào bàn ăn. Một vài người đứng ở cửa và chờ
người ta đến dẫn vào chỗ. Một vài người khác đi thẳng đến những nơi dành riêng
cho khách quí coi như dành cho mình. Nhưng nếu có nhân vật quan trọng hơn đến
vào phút chót, chủ nhà sẽ dành cho họ chỗ nhất. Người tự phụ đã ngồi chỗ ấy, sẽ
phải đi xuống và sẽ xấu hổ.
Đó
là điều đã xảy ra trong bữa tiệc mà Chúa Giê su được mời tham dự. Người Pha ri
sêu thích đi tìm chỗ nhất. Họ thích những dấu hiệu danh vọng mà người ta dành
cho mình. Đã nhiều lần Chúa Giê su cảnh giác các môn đệ của Ngài trước những
thói kiêu căng tự mãn của người Pha ri sêu. Hôm nay, Ngài lại đưa ra những lời
khuyên rất rõ ràng: “Khi anh em được mời đi ăn cưới, đừng ngồi vào chỗ nhất..”
Chẳng những Ngài dạy mà còn áp dụng cho mình. Vào buổi chiều thứ Năm tuần
thánh, Ngài đã ngồi vào chỗ của người nô lệ để phục vụ các môn đệ bằng cách rửa
chân cho họ.
Bài
tin mừng nầy đến với chúng ta trong thực tại thế giới hôm nay. Trong thế giới
chúng ta đang sống, người ta quá chú trọng đến cái “diện mạo bên ngòai”. Ai
cũng muốn đánh bóng cái tôi của mình, muốn tỏ cho thấy mình là người số một, là
người mạnh nhất và tìm cách chế ngự người khác. Đức Ki tô chỉ cho chúng ta thấy
những nguy hiểm của thói háu danh đó. Ngài nhắc chúng ta nhớ đến sự ngu ngốc của
việc “đánh bóng mình” và nhất là Ngài cho thấy sự cao cả của lòng khiêm nhường.
Hình
ảnh minh hoạ tuyệt vời nhất cho bài tin mừng chúng ta tìm thấy trong cuộc đời của
Đức Trinh Nữ Maria. Đó là người phụ nữ khiêm hạ nhất trên trần gian, nhưng hôm
nay, Người được trân trọng nhất. Lời kinh Magnificat nói với chúng ta: “Thiên
Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng, và nâng cao những người phận
nhỏ” Chúng ta cũng có một chứng từ tuyệt vời nơi cuộc đời người nữ đan tu Tê rê
xa Li si eux. Khi chị qua đời, người ta tự hỏi sẽ nói điều gì về một người đã
không làm gì đáng được kể lại. Vậy mà cho đến nay đã có hơn 4600 quyển sách viết
về cuộc đời của một người đã không làm điều gì lạ lùng để được nhắc đến. Người
đã hiểu rằng tính kiêu ngạo làm cho con người trở nên ngu ngốc và xa rời Thiên
Chúa. Ngược lại, sự khiêm nhường là con đường hòang vương đưa đến sự thánh thiện.
Chính nó đem lại giá trị cho những việc đơn sơ nhất.
Bài
tin mừng nầy mời gọi chúng ta quay về với Thiên Chúa. Chính nhờ vậy mà chúng ta
hiểu rõ sự lớn lao và sự cần thiết của đức khiêm nhường. Trước nhan Người, chúng
ta sẽ khám phá ra rằng vì không thể tự mãn với chính mình nên chỉ còn cách phó
thác cho Người. Tất cả điều đó chỉ có thể thực hiện được nếu chúng ta nhìn lại
hình ảnh mà chúng ta có về Thiên Chúa. Thông thường, người ta hình dung Người
như một vị Thiên Chúa “quyền năng vô song”, khá giống với một bức tượng khổng lồ
bằng sắt không rỉ. Cách hình dung ấy chỉ qua là nét họa lớn vô cùng của tính
kiêu căng của những người quyền lực nhất trên thế gian nầy. Thiên Chúa chân thật
thì khiêm nhu, vì Người là tình yêu, mà tình yêu không bao giờ tự cho mình ở
trên người khác.
Tòan
bộ sách tin mừng nói về một Thiên Chúa tình yêu. Chính tình yêu đã dẫn Chúa Giê
su đi tìm chỗ rốt hết. Ngài đã chọn ở về phía người bé nhỏ, người khiêm nhu, những
người bị lọai trừ. Những người không là gì cả thì lại rất quan trọng trước mắt
Thiên Chúa. Họ có chỗ nhất trong trái tim Người. Nếu chúng ta muốn tìm Đức Ki
tô, thì hãy đến với họ vì đó là nơi mà Ngài hẹn gặp chúng ta. Nếu chúng ta
khinh thường họ, chúng ta phạm tội chống lại tình yêu mà Ngài mang đến cho họ.
Tình yêu ấy là phổ quát. Ngài tin tưởng nơi chúng ta để chúng ta trở thành chứng
nhân cho tình yêu đó.
Chính
khi đi theo Đức Ki tô và sống như Ngài trong sự khiêm nhường và quảng đại mà
chúng ta sẽ tìm được niềm vui chân thật. Trong một thế giới mà tất cả đều phải
trả tiền, người ta phải nhận ra những người ki tô hữu qua sự phục vụ miễn phí
mà họ cống hiến cho những người nghèo nhất. Nếu người ki tô hữu không theo
gương của Thầy chí thánh mình, thì chứng từ của họ sẽ mất ngay tất cả nội dung.
Tất
cả chúng ta đã nghe nói về Thánh Charles Foucauld. Lúc đầu, ông chỉ là một vị
sĩ quan trác táng, cả ngày chỉ biết ăn chơi, nhậu nhẹt. Rồi một hôm, anh đã
nghe một bài giảng của Cha Huvelin nói: “Chúa Giê su đã chiếm chỗ rốt hết đến nỗi
không ai có thể giật lấy khỏi Ngài”.
Lời
ấy đã thúc đẩy Charles de Foucauld sám hối và trở về. Anh liền lui về Na gia
rét để tìm chỗ rốt hết; anh đã muốn ở cùng một nơi, trong cùng điều kiện khiêm
hạ và ẩn dật của Chúa Giê su Na gia rét. Sau đó anh đến sống trong cảnh tĩnh mịch
hoang vắng ở sa mạc Sa ha ra giữa những người Touareg. Charles de Foucauld chỉ
muốn đi theo Đức Ki tô trên con đường khó khăn của tình yêu. Anh không còn tìm
kiếm vinh quang cho bản thân mình nữa, mà là đi xuống đến chỗ cuối cùng, để có
thể yêu thương đến cùng, yêu thương cho đến hiến thân.
Khi
cử hành lễ Tạ ơn nầy, chúng ta hãy tạ ơn Chúa đã mời chúng ta đến tham dự. Ngài
đã trở nên “người tôi tớ” của tất cả mọi người; Ngài đã đến để đảo lộn ngôi thứ
trong các đám tiệc để dành chỗ nhất về cho những người bé nhỏ và khiêm nhường;
Ngài đã rửa và lau chân cho các môn đệ. Và nhất là Ngài mời chúng ta đến sự cao
cả thật sự, sự cao cả mà Ngài chia sẻ với Chúa Cha và ChúaThánh Thần đến muôn đời.
Amen.
ĐÀO SÂU
HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG
Hc
3,17-20, 28-29 Khuyên nhủ hãy sống khiêm nhường
Tv
68,3-4, 5-6a, 9-10 Chúc tụng Chúa vì Ngài nâng cao những kẻ khiêm nhường
Hr
12,18-19, 22-24a Lễ mừng trên núi Giao Ước mới
Lc
14,1. 7-14 Chọn chỗ rốt hết và mời những người nghèo dự tiệc
1. HỎI: Ba bài đọc liên kết
với nhau theo chủ đề nào?
THƯA: HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG.
Thiên Chúa muốn huấn luyện dân được tuyển chọn nên những con người hiền lành và
khiêm nhường để được cứu độ (Bđ 1). Hãy sống dưới cái nhìn của Thiên Chúa mà
khiêm nhường phục vụ lẫn nhau (BTM). Chúng ta ngày nay đã được tiến lại gần núi
Sion và Giê-ru-sa-lem thiên đài, tức là đã được đưa sang một thế giới khác, thế
giới thiêng liêng của Thiên Chúa hằng sống (Bđ2).
2. HỎI: Sách Huấn ca là
sách gì?
THƯA: Trong Giáo Hội Công giáo,
sách Huấn ca được xếp vào loại sách Giáo huấn của Giáo Hội. Sau sách Thánh Vịnh,
Huấn ca được dùng nhiều nhất trong phụng vụ. Thậm chí, có lúc được Giáo Hội thời
đầu đã dùng như sách giáo lí chính thức.
Sách
Huấn ca do ông Ben Xira viết bằng tiếng Híp ri vào khoảng thế kỉ thứ 2 trước
Công nguyên tại Do thái, rồi cháu nội của ông dịch ra tiếng Hi lạp. Nội dung gồm
một bộ sưu tập các lời khôn ngoan về mọi đề tài cần thiết cho cuộc sống đức
tin.
3. HỎI: Khôn ngoan theo
Kinh thánh có nghĩa gì?
THƯA: Khôn ngoan trong Kinh
thánh có nghĩa là nghệ thuật sống hạnh phúc mà ai cũng khao khát tìm kiếm.
Riêng dân Ít-ra-ên được diễm phúc biết rằng: Mọi sự khôn ngoan đều bắt nguồn từ
Thiên Chúa’ (Hc 1, 1).
4. HỎI: Người khôn ngoan
trong Kinh Thánh ao ước điều gì?
THƯA: Vì mọi sự khôn ngoan đều
bắt nguồn từ Thiên Chúa nên ‘Người khôn ngoan ao ước có đôi tai thính để lắng
nghe Người dạy bảo’.
5. HỎI: Đức tính nào cần
thiết để lắng nghe?
THƯA: Là đức khiêm nhường. Người
khiêm nhường nhận rằng mình không biết gì, nên luôn rộng mở đôi tai sẵn sàng lắng
nghe những lời Thiên Chúa phán dạy. Còn người kiêu căng tự phụ mình biết tất cả
nên bỏ qua mọi lời giáo huấn của Thiên Chúa. Tình cảnh ấy thật vô phương cứu chữa
vì cội rể sự dữ ở trong tâm hồn nó (c 28).
6. HỎI: Với những kẻ khiêm
nhường Thiên Chúa làm gì?
THƯA: Thiên Chúa có thể làm những
điều cao cả cho những kẻ khiêm nhường. Người biến họ thành những tôi tớ cộng
tác tích cực trong việc thực hiện chương trình cứu độ của Người.
7. HỎI: Tiên tri I-sai-a
đã mô tả người tôi tớ như thế nào?
THƯA: ‘Đức Chúa đã cho tôi nói
năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng
sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người
môn đệ’ (Is 50,4-5)
8. HỎI: Ông Mô-sê có phải
người Tôi trung của Thiên Chúa không?
THƯA: Phải. Ông là bậc tôi
trung vĩ đại và phục vụ không mệt mõi chương trình của Thiên Chúa. Sách Dân số
đã cho biết sở dĩ ông được như thế vì: ‘Ông là người khiêm tốn nhất, không ai
sánh được’ (Ds 12,3)
9. HỎI: Và Chúa Giê su?
THƯA: Chúa Giê su là người Tôi
Trung tuyệt vời của Thiên Chúa. Chính Ngài đã nói: ‘Ta dịu hiền và khiêm nhượng
trong lòng’ (Mt 11,29).
10. HỎI: Còn Thánh Phao
lô?
THƯA: Thánh Phao lô luôn tự cọi
mình như là khí cụ Thiên Chúa dùng đã loan báo Tin mừng cho muôn dân: ‘Nếu phải
tự hào, thì tôi sẽ tự hào về những yếu đuối của tôi. Nhưng Chúa quả quyết với
tôi: ‘Ơn của Thầy đã đủ cho anh’, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn
trong sự yếu đuối’ (2 Cr 11,30;12,9)
11. HỎI: Bài đọc 2 (Dt 12,
18-19.22-24a) có nội dung như thế nào?
THƯA: Tác giả thư Híp ri tiếp tục
khích lệ các kitô hữu: khi họ bỏ Do thái giáo, dường như họ bỏ núi Sinai, nhưng
khi theo chân Đức Ki tô, họ tiến gần thành Giê-ru-sa-lem trên trời, họ được đến
với chính Thiên Chúa.
12. HỎI: Ngữ cảnh bài Tin
mừng (Lc 14, 1.7-14) như thế nào?
THƯA: Sang chương 14, bối cảnh
chung là bữa ăn (14, 1.7.12.15). Mở đầu là bữa ăn trong nhà một người
Pha-ri-sêu (c. 1); sau cùng là bữa tiệc trong Nước của Thiên Chúa (c.15). Trong
đoạn trước Chúa Giêsu mời gọi vào cửa hẹp để có thể vào dự tiệc Nước Trời (x.
13,22-30). Trong đoạn nầy, Người dạy cách sống trong khung cảnh một bữa tiệc,
cho người được mời (14,7-11), và người đãi tiệc (14,12-14).
13. HỎI: Người ta nhận xét
rằng Luca là tác giả Tin mừng thích kể lại nhiều bữa ăn của Chúa Giê su, có
đúng không?
THƯA: Đúng. Tin mừng Lu ca kể lại
nhiều bữa ăn của Chúa Giê su dùng tại nhà ông Simông Pha-ri-sêu (7, 36); nhà cô
Mát ta và Maria (10, 38); rồi lại một nhà người Pha-ri-sêu (11,37); nhà Gia-kêu
(19); bữa tiệc Vượt qua (22). Chúa Giê su coi các bữa ăn là quan trọng đến nỗi
Ngài bị tiếng xấu là một người ‘mê ăn mê uống’ (Lc 7,34). Đặc biệt, ba bữa ăn
nơi nhà Pha-ri-sêu đã khiến cho tương quan giữa Ngài và họ trở nên căng thẳng.
14. HỎI: Còn bữa ăn mà bài
Tin mừng hôm nay nói đến như thế nào?
THƯA: Đây là bữa ăn thứ ba nơi
nhà người Pha-ri-sêu trong một ngày Sa bát.
15. HỎI: Ngày sa bát có ý
nghĩa như thế nào?
THƯA: Ngày sa bát có ý nghĩa
quan trọng đối với người Do thái. Sa bát có nghĩa ngưng làm việc. Ngày đó, mọi
người phải ngưng tất cả mọi công việc để thờ phượng Thiên Chúa. Trong truyền thống
Do thái giáo, sa bát là ngày kỉ niệm Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, ngày Thiên
Chúa ra tay giải thoát Dân Người khỏi Ai cập, trong niềm vui mong chờ ngày
Thiên Chúa tái tạo mọi sự. Việc cử hành ngày sa bát được đánh dấu bằng một bữa
ăn lớn.
16. HỎI: Tương quan giữa
Chúa Giê su và người Pha-ri-sêu như thế nào?
THƯA: Tương quan giữa Chúa Giê
su và người Pha-ri-sêu vửa thân tình vừa nghiêm khắc.
17. HỎI: Thân tình là sao?
THƯA: Thân tình vì người
Pha-ri-sêu là những người rất tốt. Phong trào Pha-ri-sêu phát xuất từ ý muốn
sám hối, từ bỏ mọi dính dáng đến chính trị, mọi cách sống buông thả. Họ cố gắng
trung thành tuyệt đối với truyền thống mà họ lãnh nhận từ cha ông để sống đẹp
lòng Thiên Chúa qua việc giữ trọn mọi lề luật.
18. HỎI: Nhưng tại sao
Chúa Giê su nghiêm khắc phê phán lối sống ấy?
THƯA: Phong trào ấy hoàn toàn
đáng được kính trọng. Nhưng sở dĩ Chúa Giê su nghiêm khắc phê phán lối sống ấy,
vì lí tưởng tôn giáo đẹp nhất có thể có những tảng đá ngầm. Việc giữ luật quá
nghiêm khắc có thể sinh ra một lương tâm quá khắt khe dễ dẫn đến việc khinh khi
những người không sống được như vậy. Sâu xa hơn, ý muốn sống tách biệt với mọi
người đi ngược lại kế hoạch của Thiên Chúa là muốn qui tụ mọi người trong tình
yêu cứu độ. Lối sống nguy hiểm ấy khiến cho Chúa Giê su phải có những lời cứng
rắn cảnh giác họ.
19. HỎI: Trong Cựu Ước có
dạy cách xử thế khôn ngoan như Chúa Giê su không?
THƯA: Có. Như trong sách Huấn
ca: ‘Khi người quyền thế mời con, con hãy lẩn đi. Như thế, người ta càng mời mọc
con hơn nữa’ (Hc 13,9) hay trong sách Châm Ngôn: ‘Thà được người ta bảo: ‘Xin mời
ông lên trên! Còn hơn bị hạ xuống trước mặt người quyền cao chức trọng’ (Cn
25,7).
20. HỎI: Thế thì dụ ngôn của
Chúa Giê su có điều gì mới?
THƯA: Dụ ngôn Chúa Giê su còn
đi xa hơn. Như cách các tiên tri dạy dỗ, Ngài muốn mở mắt cho những người biệt
phái trước khi quá muộn: tự hào thái quá về mình có thể dẫn đến mù quáng. Hơn nữa,
Ngài muốn vạch trần nơi họ sự nguy hiểm của việc khinh dễ kẻ khác, vì để vào Nước
Trời cần phải trở nên giống như trẻ nhỏ (x. Lc 9,46-48; Mt 18,4). Con đường sám
hối dẫn vào Nước Trời chỉ có thể thực hiện được nếu biết tự nhận mình là kẻ yếu
đuối trước mặt Thiên Chúa (Lc 18,10-14).
21. HỎI: Người Pha-ri-sêu đã
mời Chúa Giêsu ăn tối, để cố ý dò xét Ngài?
THƯA: Đúng. Chủ nhà người
Pha-ri-sêu đã mời Chúa Giêsu không phải để cảm nhận vinh dự được một bậc thầy đến
nhà mình, nhưng chính là để dò xét Ngài. Thật vậy, từ lâu người Pha-ri-sêu tỏ
ra có thành kiến và thù nghịch đối với Chúa Giê su. Động từ trong tiếng Hi lạp
có nghĩa là: ‘để dò xét Ngài gần hơn’.
22. HỎI: Tại sao Chúa
Giêsu trong dụ ngôn nói đến một tiệc cưới?
THƯA: Để không xúc phạm các vị
khách có mặt tại bữa tiệc được chiêu đãi để dò xét về giáo huấn của Ngài.
23. HỎI: Tác giả Tin mừng
ám chỉ đến ai khi nói về những người chọn chỗ nhất?
THƯA: Ông ám chỉ đến các thầy
thông giáo và người Pha-ri-sêu hay tự phụ về bản thân và bằng lòng với sự nổi
tiếng đối với dân chúng. Ngoài ra, họ còn thích được người khác chú ý bằng cách
chiếm hàng ghế đầu trong các hội đường và các bữa tiệc (Lc 11,43, 20,46).
24. HỎI: Khi được mời dự
tiệc cưới hãy chọn nơi cuối cùng, để có thể che giấu ý định chiếm chổ nhất, rồi
sau đó để cho người ta yêu cầu chiếm vị trí đầu tiên; trong trường hợp đó, người
ấy có khiêm tốn không?
THƯA: Hoàn toàn không, đó sẽ là
sự khiêm tốn giả tạo. Sự khôn ngoan mà Chúa Giê su dạy không được hiểu như là
khôn khéo tỉm cơ hôi để được nâng lên, nhưng là một thái độ bên trong phát xuất
từ một niềm tin chân thành và sâu sắc về sự bé nhỏ và bất xứng của mình.
25. HỎI: Đâu là mục đích của
Chúa Giêsu khi kể dụ ngôn này?
THƯA: Chúa Giê su có ý định đề
ra một bài học về sự khiêm tốn cho các môn đệ bằng cách thúc đẩy họ phát triển
trong tâm hồn niềm tin cơ bản ấy. Tuy nhiên, lời dạy của Chúa không nhắm mục
đích đề ra những bài học về cách sống lịch sự trong giao tế xã hội, cho bằng
nâng cao cái nhìn về phía Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa yêu thương người khiêm nhường
và từ chối kẻ kiêu căng và tự phụ. Người còn tự hiến và đến ngự nơi tâm hồn những
người quảng đại, biết vui mừng hi sinh một cái gì đó của riêng mình để nhường lại
cho những người cần nó nhất. Họ sẽ được Chúa Thánh Thần ngự đến và ban niềm vui
tự hiến vì lợi ích của cộng đồng mà không mong đền đáp hoặc phần thưởng nào
khác.
26. HỎI: Vì khiêm nhường,
nên khi nói về bản thân và sứ mạng, Chúa Giê su luôn nói một cách gián tiếp hoặc
sử dụng các trích đoạn Kinh Thánh, có đúng không?
THƯA: Đúng. Ví dụ, khi nói về
Con Người, Ngài thường qui chiếu đến lời tiên tri quan trọng trong sách
Đa-ni-ên.
27. HỎI: Thực thi sứ điệp
Lời Chúa như thế nào?
THƯA: 1. Sống khiêm nhường và tự
hạ trong suy nghĩ, lời nói và hành động: mọi cái tôi có (sức khỏe, tài năng, thời
gian, địa vị xã hội và của cải) đều do Thiên Chúa ban cho thì tại sao lại không
sống khiêm nhường tự hạ làm đẹp lòng Thiên Chúa và ích lợi cho bản thân mình?
2.
Sống vô vị lợi và quảng đại với tha nhân trong đời sống gia đình và xã hội: mọi
cái tôi có không phải chỉ cho riêng tôi mà còn cho những người xung quanh nữa!
Tại sao tôi lại sống ích kỷ, vụ lợi mà không sống vị tha và quảng đại làm vui
lòng Thiên Chúa và ích lợi cho tha nhân?
GLCG
544 Nước Thiên Chúa thuộc về những người nghèo hèn và bé mọn, nghĩa là, những
người đón nhận Nước ấy với tâm hồn khiêm tốn. Đức Kitô được sai đến để ‘loan
báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn’ (Lc 4,l8). Người tuyên bố rằng họ có phúc, ‘vì
Nước Trời là của họ’ (Mt 5,3); Chúa Cha đã thương mạc khải cho những kẻ ‘bé mọn’
này điều Người giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết. Chúa Giêsu, từ
máng cỏ cho tới thập giá, đã chia sẻ kiếp sống của những kẻ nghèo hèn; Người đã
từng chịu đói, chịu khát, chịu thiếu thốn. Hơn thế nữa, Người tự đồng hóa mình
với mọi hạng người nghèo hèn và coi lòng yêu thương tích cực đối với họ là điều
kiện để được vào Nước của Người. (x. Nước Chúa thuộc về những ai có lòng khiêm
nhường thật sự 543-546. Chúa Giêsu dành ơn cứu độ cho người nghèo và tội nhân 588-589.
Mời gọi sống tinh thần khó nghèo 2544-2547).