Trang Chủ > Suy Niệm > Thường Niên 1-12 > Tuần 8

CHÚA NHẬT 8 THƯỜNG NIÊN A

Lời Chúa: Is 49,14-15; 1Cr 4,1-5; Mt 6, 24-34

MỤC LỤC

1. Thiên Chúa quan phòng. 2

2. Thiên Chúa quan phòng. 5

3. Lạc quan – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền. 8

4. Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi – Anmai 11

5. Thiên Chúa quan phòng. 16

6. Suy niệm của ĐGM. Phaolô Nguyễn Thanh Hoan. 18

7. Chọn Thiên Chúa hay tiền của. 23

8. Suy niệm của Lm Ignatiô Hồ Thông. 36

9. Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu. 44

10. Thiên Chúa quan phòng – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền. 48

11. Tiền và Nước Trời 51

12. Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Thể Hiện. 54

13. Con là con của Chúa. 61

14. “Dân ngoại đạo!”. 67

15. Người biết rõ các ngươi cần đến các điều ấy. 70

16. Thiên Chúa hay thần tài? - Lm Nguyễn Hồng Giáo. 77

17. Nguồn sống – Lm Vũ Đình Tường. 81

18. Đơn sơ như trẻ nhỏ. 85

19. Thiên Chúa quan phòng. 91

20. Không thể thờ hai chủ. 94

21. Chú giải của Noel Quesson. 102

22. Suy niệm của Lm Hồ Thông. 109


1. Thiên Chúa quan phòng

Hơn bao giờ hết, con người thời nay đang sống trong một sự khắc khoải lo sợ. Đúng vậy, người ta lo sợ trước bệnh tật, tuổi già và chết chóc. Người ta lo sợ trước chiến tranh và vũ khí nguyên tử. Người ta lo sợ trước những điều rủi ro làm mất tiền, mất tình và mất hạnh phúc. Cuộc sống như trở nên bấp bênh vô định. Khắp nơi đều có những đe doạ, những hiểm nguy. Người ta dùng tới mọi phương tiện miễn sao tìm thấy được một sự bảo đảm an toàn. Từ những phương tiện chính đáng như các công ty bảo hiểm đến những phương tiện kỳ cục và vô lý chẳng hạn như bói toán và kiêng cữ.

Tại thành phố Paris có tới 15.000 thầy bói, hằng năm thu được những lợi tức đáng kể. Cứ ba người Pháp thì lại có một người đi nghe bói toán và những chuyện nhảm nhí khác. Tất cả những tờ báo lớn đều có mục tử vi. Có tờ chỉ bỏ mục này có một ngày thì liền bị giảm mất 40.000 số trong vòng 48 tiếng đồng hồ. Tại Đức và nhiều quốc gia văn minh khác cũng thế. Với chúng ta cũng vậy. Đứa bé mới sinh ra người ta cũng chấm tử vi trọn đời cho nó. Hằng năm người ta lên chùa vào dịp tết để xin sâm, để hái lộc đầu xuân. Hằng ngày mỗi khi mất trộm mất cắp người ta vội đi hỏi thầy bói. Rồi thì kiêng cữ đủ thứ, đủ chuyện để khỏi xui khỏi rủi. Chúng ta muốn biết trước hậu vận tương lai, nhưng mà tiền cho thầy bói chỉ chuốc thêm lo vào mình. Sự sợ hãi vẫn còn đó, nó làm cho chúng ta dường như bị tê liệt. Và sự lo sợ trở thành một tiếng kêu xin cần được cứu vớt và an toàn. Có điều đáng tiếc là họ đã không biết đi tìm sự cứu vớt và an toàn ấy nơi Thiên Chúa vì họ cho rằng Thiên Chúa là một cái gì mơ hồ và xa xôi. Bao lâu người ta không còn tin tưởng vào Thiên Chúa nữa, chắc chắn người ta sẽ bị thất bại.

Đúng thế, với chúng ta Thiên Chúa không phải là một ông chủ hà khắc nhưng là một người Cha đầy yêu thương và thương xót. Đời sống của chúng ta sẽ không còn lo âu khắc khoải nếu chúng ta bước đi dưới sự soi dẫn của Ngài và nếu chúng ta ra sức thực thi thánh ý Ngài. Bởi vì Ngài đã tính trước và thấy trước mọi sự. Đồng thời Ngài lại đặc biệt chăm sóc cho chúng ta: Các con hãy nhìn xem chim trời và cánh hoa đồng nội. Các con còn trọng hơn chúng bội phần. Nào ai trong các con lo lắng mà có thể làm cho thân mình lớn thêm được một tấc sao. Và như thế, người tin tưởng vào Chúa thì sự lo sợ chỉ là một cái gì kỳ cục, bởi vì chúng ta không phải là những kẻ vất vưởng, bị bỏ rơi và tiếng kêu cứu của chúng ta không phải là những tiếng kêu vô vọng chẳng được đáp trả.

Tuy nhiên, cần phải có một chút can đảm chúng ta mới dám phó thác mọi sự cho Chúa, chúng ta mới dám nhảy vào vòng tay thương yêu của Ngài.

Tại Nam Hàn, hồi đó có tin quân Bắc Hàn cùng với quân Liên Xô sẽ mở những cuộc tấn công vượt qua biên giới. Dân chúng sống gần vùng phi quân sự vội vã đi mua sắm những nhu yếu phẩm nào gạo, nào sữa, nào đường, nào thuốc lá. Chỉ có những tiệm sách là im lìm không ai đặt chân tới, vì trong một tình trạng căng thẳng như thế, sách vở phỏng có ích lợi chi. Thế nhưng, cũng có một thiếu phụ bước vào và hỏi mua một cuốn Kinh Thánh và một cuốn giáo lý. Người bán hàng sững sờ ngạc nhiên và tự hỏi: Một cuốn Kinh Thánh và một cuốn giáo lý ích gì khi mà chiến tranh sắp bùng nổ. Nhưng người thiếu phụ đã bình tĩnh trả lời: Những cuốn sách này ở mọi nơi và trong mọi lúc đều đem lại lợi ích.

Sống giữa một hoàn cảnh đầy lo âu sợ hãi, câu trả lời của người thiếu phụ phải chẳng đã làm cho chúng ta xúc động và cảm thấy hổ thẹn.

2. Thiên Chúa quan phòng.

Có một nhà hiền triết quan sát cơn gió thổi qua đồng cỏ. Khi cơn gió nổi lên, cây cỏ đều ngả theo chiều của gió. Khi cơn gió tạm ngưng thì cây cỏ lại ngóc đầu lên. Khi con gió đổi chiều, thì cây cỏ cũng đổi chiều.

Thấy vậy, nhà hiền triết bèn nói: Cây cỏ là chúng ta, còn cơn gió là số mệnh. Số mệnh không bao giờ để cho chúng ta nghỉ yên, nó thổi tung và thổi tung mãi, khi thì thổi bên trái, lúc thì thổi bên phải. Điều quan trọng là phải biết nương theo chiều gió. Đừng chống cự, đừng phản kháng, nhưng hãy biết gắn bó với số mệnh của mình, bởi vì số mệnh là chính Thiên Chúa, là thánh ý của Ngài.

Từ đồng cỏ, nhà hiền triết ghé thăm một người bạn quen. Thoạt khi tới cửa, thì con chó sủa vang, đứa bé đang chơi ngoài sân, nhìn thấy người lạ, bèn chạy đi nép mình vào vòng tay người mẹ. Nhà hiền triết càng tiến tới, thì đứa trẻ níu chặt lấy đôi tay người mẹ.

Thấy vậy, nhà hiền triết bèn nói: Đứa trẻ sợ hãi là chúng ta. Người lạ mặt là số mệnh, còn vòng tay chở che là Thiên Chúa. Số mệnh nhiều khi âm thầm từng bước tiến lại gần, khiến chúng ta sợ hãi, thế nhưng điều khôn ngoan là hãy noi gương bắt chước đứa trẻ, biết nép mình vào vòng tay uy quyền của Thiên Chúa. Tương lai càng đen tối, chúng ta lại càng phải níu chặt bàn tay của Thiên Chúa. Sống dưới cái nhìn trìu mến của Ngài, chúng ta sẽ không còn sợ hãi. Nếu đứa trẻ nhận ra tôi là một người quen, thì nó sẽ vui mừng chạy ra và ôm lấy. Cũng vậy, số mệnh dù có bẽ bàng thì cũng là thánh ý của Thiên Chúa. Nếu chúng ta có một đức tin mạnh mẽ, chúng ta sẽ sẵn sàng đón nhận không kêu ca oán trách.

Thế nhưng có một người đàn bà đã lên tiếng phản đối: Làm sao tôi có thể giơ tay đón nhận số mệnh, vì nó như những ngọn roi quất vào cuộc đời tôi. Chồng tôi bị chết trong chiến tranh, và bây giờ, mười mấy năm sau, đứa con trai tôi cũng lại chết trong chiến tranh.

Nhà hiền triết thông cảm với những đau khổ ấy, nhưng rồi ông đã trả lời bằng một giọng đầy an ủi khích lệ: Tôi biết, rất có thể chúng ta sẽ phải khóc dưới sức nặng của thập giá, nhưng chúng ta không có quyền chất vấn Thiên Chúa. Chúng ta phải tin rằng Đấng đã dựng nên những bông hoa xinh tươi, những trái cây ngon ngọt, Đấng đã cẩn thận sắp xếp từng nguyên tử của vật chất, thì Ngài sẽ chẳng để cuộc sống con người bị bất ổn.

Con người đau khổ, đó là điều dĩ nhiên. Nhưng đau khổ không phải là một cái gì thừa thãi và vô ích, chính Chúa Giêsu cũng đã từng chịu đau khổ, nhưng Ngài đã mặc cho những đau khổ ấy một giá trị tuyệt vời và đã dùng những đau khổ ấy để cứu chuộc chúng ta. Rồi Ngài lại phán: Phúc cho những ai than khóc vì Nước Trời là của họ. Vậy thì chị là người đang đau khổ, Nước Trời là của chị đó. Nếu không có Nước Trời, thì tôi sẽ lên tiếng kêu gọi mọi người đau khổ hãy đoàn kết, chống lại số mệnh, chống lại Thiên Chúa. Nhưng Nước Trời còn đó, và Thiên Chúa đang chờ đón chúng ta. Hãy để Ngài tẩy rửa và thanh luyện chúng ta nên xứng đáng với hạnh phúc tuyệt vời ấy.

Đừng hỏi tại sao Thiên Chúa lại dựng nên bông hồng có những gai nhọn, Ngài có chương trình của Ngài. Hãy để cho Ngài uốn nắn và hành động. Thái độ khôn ngoan nhất là biết nép mình vào bàn tay Chúa. Nếu cây cối chống trả với ngọn gió, nó sẽ bị gẫy đổ, nếu chúng ta chống trả với Thiên Chúa, đời chúng ta sẽ chồng chất thêm nhiều khổ đau, dù cuộc đời chúng ta có sóng gió, thì cũng hãy tin tưởng vào Thiên Chúa vì trước mặt Thiên Chúa, chúng ta đáng giá hơn chim trời và hơn hoa cỏ đồng nội rất nhiều.


3. Lạc quan – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Người ta nói rằng sống trong cuộc đời luôn phải chiến đấu để vươn lên, chiến đấu để tồn tại. Cuộc sống luôn có những khó khăn, luôn có những thử thách đòi hỏi con người phải can đảm vượt qua những khó khăn của dòng đời. Nhất là trong việc tìm kiếm cơm áo gạo tiền luôn là nỗi lo của hàng triệu người. Có kẻ ăn bữa no bữa đói. Có người ăn bữa sáng, lo bữa chiều. Vì người đông của hiếm. Kinh tế thị trường lại cạnh tranh khiến kẻ mạnh luôn thắng còn người nghèo đói luôn thua thiệt. Những ngày tết vừa qua tại bệnh viện Truyền Máu và Huyết Học Quận 5 vẫn có những người nghèo khổ tấp nập tìm đến đây với hy vọng bán được thứ duy nhất bán được để tồn tại. Đó là Máu hay Tiểu Cầu để có tiền trang trải nợ nần và cho con cái hưởng chút hương vị mùa xuân. Gọi là "chợ" vì có kẻ bán, người mua. Nhưng nơi đây chỉ duy nhất một "người mua" là bệnh viện. Theo báo tuổi trẻ ghi nhận rẵng: "Sài Gòn những ngày tết sạch sẽ và yên tĩnh, mọi người gặp nhau với những lời chúc tốt đẹp. Ngoài kia tiếng chiêng trống của một đám múa lân rộn rã. Thế mà trong nầy vẫn có những người nghèo khổ phải nhốn nháo xin bán từng giọt sức của mình".

Thế nhưng, cho dù là giầu có hay có công danh sự nghiệp, dường như ai cũng không bao giờ toại nguyện về cuộc sống mình. Người giầu cũng khóc, kẻ nghèo cũng than. Kẻ có địa vị cũng khổ, người dân thấp hèn càng bất hạnh hơn. Con người thường hay than phân trách phận vì Trời chẳng bao giờ làm cho họ toại nguyện về những gì mình đang có.

Có một chàng thanh niên nọ lúc nào cũng than vãn số mình không tốt, không thể giàu có được. Một ngày kia, một ông lão đi qua, nhìn thấy vẻ mặt ủ ê của anh bèn hỏi:

- Chàng trai, sao trông cậu buồn thế, có việc gì không vui à?

- Cháu không hiểu tại sao cháu làm việc chăm chỉ, vất vả mà vẫn nghèo. Chàng trai buồn bã nói.

- Nghèo ư, cháu là một người giàu đó chứ?

- Chưa ai nói với cháu như vậy cả, cháu rất nghèo.

- Giả như ta chặt ngón tay cái của cháu, ta trả cháu 3 đồng tiền vàng cháu có đồng ý không?

- Không ạ.

- Giả như ta chặt một bàn tay của cháu, ta trả 30 đồng tiền vàng, cháu có chịu không?

- Không bao giờ.

- Vậy ta muốn lấy đi đôi mắt của cháu, ta trả cháu 300 đồng tiền vàng, cháu thấy thế nào?

- Cũng không được.

- Vậy ta trả cháu 3,000 đồng tiền vàng để cháu trở thành ông lão như ta, già cả, lú lẫn được không?

- Đương nhiên là không.

- Cháu muốn giàu. Vậy ta sẽ đưa cho cháu 30,000 đồng tiền vàng để lấy đi mạng sống của cháu, cháu thấy thế nào?

- Cháu cảm ơn ông! Cháu đã hiểu cháu cũng là một người giàu có.

Trong cuộc sống, rất nhiều người thường than thân trách phận mà không thực sự hiểu ra mình còn hạnh phúc hơn rất nhiều người khác. Có kẻ giầu nhưng gia đình lại không hạnh phúc. Có kẻ tuy nghèo nhưng gia đạo lại trên dưới thuận hoà. Có kẻ có tiền nhưng không có sức khoẻ. Có người vất vả ngược xuôi nhưng lại chẳng đau yếu bao giờ. Vì thế, dầu chúng ta trong hoàn cảnh nào cũng hãy lạc quan với những gì mình có. Hãy vui với phận số an bài. Đứng đứng đó để nguyền rủa đời mình mà hãy nhìn về tương lai với tinh thần lạc quan và hy vọng. Người xưa vẫn thường nói: "không ai giầu ba họ - Không ai khó ba đời". Cuộc sống luôn tặng ban cho chúng ta biết bao niềm vui và hạnh phúc. Hãy biết tận hưởng những giây phút hiện tại, đừng đứng đó mà nguyền rủa ngày tháng mình sinh, nhưng hãy đứng dậy để vượt qua những khó khăn trước mắt. Hãy tin tưởng vào tương lai đang chờ đón những điều tốt đẹp sẽ đến với chúng ta.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tín thác vào Chúa. Hãy để cho Chúa lo cho bạn ngày mai còn ngày hôm nay hãy sống hết mình với giây phút hiện tại. Hiện tại có khó khăn nhưng "sau đêm dài là ánh bình minh". Hiện tại là bóng đêm nhưng bình minh sẽ ló rạng để phá tan đêm tối. Chúa bảo rằng: "chim trời chúng con gieo vãi mà vẫn có ăn, hoa cỏ đồng nội chúng không làm lụng thế mà vẫn xinh tươi rực rỡ". Là con cái của Chúa, Chúa sẽ không bao giờ để chúng ta phải thua thiệt. Chúa sẽ chăm sóc cuộc đời chúng ta như người cha người mẹ lo cho con cái. Chúa sẽ luôn làm những điều tốt đẹp nhất cho chúng ta.

Ước gì mỗi người chúng ta biết an vui với phận số của mình trong niềm tin tưởng phó thác vào Chúa. Nguyện xin Chúa luôn đồng hành và giúp chúng ta vượt qua những khó khăn của dòng đời hôm nay. Amen.


4. Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi – Anmai

Đã là người, khi bước vào cuộc đời này không tránh khỏi những băn khoăn. Có những băn khoăn về phận người, có những băn khoăn về đời sống vật chất và cũng có những băn khoăn về đời sống tinh thần. Từ những băn khoăn đó, con người đi tìm lý giải cho ý nghĩa của cuộc đời. Vì mang trong phận mình là con người yếu đuối, bất toàn hay nói đúng hơn là bất lực trước những nghịch cảnh của cuộc đời để rồi sự băn khoăn đó cứ dồn dập trong cuộc đời.

Thiên Chúa nói với con người là Thiên Chúa ở bên, ở gần con người và chở che con người ấy nhưng mà thực tế trong cuộc sống, quá nhiều lần Thiên Chúa làm cho con người hụt hẫng và không biết là Thiên Chúa có ở cạnh bên mình hay không?

Trong bài ca thứ hai, bài ca người Tôi Trung trong sách ngôn sứ Isaia mà chúng ta nghe đó diễn tả tâm trạng thổn thức, tâm trạng lo lắng rằng Thiên Chúa có ở bên mình hay không. Chúng ta vừa nghe: Sion từng nói: "Đức Chúa đã bỏ tôi, Chúa Thượng tôi đã quên tôi rồi! " Nghe tiếng lòng thổn thức như vậy, Đức Chúa đã đáp lời: Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.

Đức Chúa không cần phải nói nhiều, không cần giải thích nhiều, Đức Chúa chỉ lấy hình ảnh của một người mẹ để minh họa. Đã là mẹ thì không bao giờ có ai cam tâm bỏ con mình cả và rồi Đức Chúa nói rằng dẫu cho là người mẹ có quên đứa con mình đi chăng nữa vì lý do nào đó còn Đức Chúa thì Đức Chúa không hề quên.

Chúa Giêsu, hôm nay, trong trang tin mừng hết sức quen thuộc như muốn nhắc lại cho chúng ta về thao thức của con người về tương lai, về cuộc đời.

Với hình ảnh hết sức bình thường của con chim. Chúa Giêsu nói cho các môn đệ rằng chúng không gieo, không gặt và cũng chẳng thu vào kho lẫm thế nhưng mà lạ lùng là cha trên trời vẫn nuôi chúng. Quả thật là như vậy, bao nhiêu con chim trên trời nhưng chúng ta thấy có con nào phải chết vì đói đâu. Thiên Chúa vẫn nuôi chúng mỗi ngày, không chỉ có nuôi thôi nhưng còn nuôi một cách hết sức chu đáo nữa là đàng khác.

Kế đến, Chúa Giêsu lại dí dỏm về chiều cao của con người. Ai lùn thì sẽ rõ chuyện này. Biết mình lùn đấy nhưng làm sao mà có thể cao hơn được. Khoa học dù có can thiệp đi chăng nữa nhưng hình như chẳng được là bao.

Hết sức bình thường với con người là chuyện cơm ăn áo mặc. Dù cho con người cố gắng mặc đẹp thế nào đi chăng nữa thì cũng chẳng thể nào sánh bằng bông hoa huệ ngoài đồng. Không chỉ có hoa huệ mà còn nhiều loài hoa khác nữa áo quần của con người không thể nào sánh ví với vẻ đẹp mà tạo tác ban tặng cho nó.

Đi đến một bước xa hơn nữa, Chúa Giêsu nói rằng tất cả những gì lo cho con người thì mọi người và cả dân ngoại cũng đi tìm cái đó nhưng Cha của anh em trên Trời biết anh em đi tìm cái gì. Kết thúc những gì Ngài nói, đỉnh điểm của điều Ngài nói đó là chớ phải lo lắng gì về ngày mai cả. Ngày mai đều nằm trong lòng bàn tay của Chúa.

Thánh Vịnh 61 mà chúng ta vừa nghe trong bài đáp ca nói lên tâm tình cuả người tin tưởng vào Chúa:

Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi,

hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn.

Ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến,

duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi,

là thành luỹ chở che: tôi chẳng hề nao núng.

Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi,

này hồn tôi hãy nghỉ ngơi yên hàn.

Vì hy vọng của tôi bởi Người mà đến,

duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi,

là thành luỹ chở che: tôi chẳng hề nao núng.

Nhờ Thiên Chúa, tôi được cứu độ và vinh quang,

Người là núi đá vững vàng,

ở bên Thiên Chúa tôi hằng ẩn thân.

Hỡi dân ta, hãy tin tưởng vào Người luôn mãi,

trước mặt Người, hãy thổ lộ tâm can:

Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu.

Thánh Vịnh 61 quả thật là tuyệt vời khi nói đến kẻ thường dân, khi nói đến người quyền quý. Tất cả chỉ là không không trước mặt Thiên Chúa mà thôi:

Kẻ thường dân âu chỉ là hơi thở,

người quyền quý đều ví tựa ảo huyền,

đứng cả lên cân cũng chẳng tày mây khói.

Đừng tin tưởng ở trò áp bức nữa,

chớ hoài công cậy ngón bóc lột người!

Tiền tài dẫu sinh sôi nảy nở,

lòng chẳng nên gắn bó làm chi.

Thế đấy! Phận con người hết sức mong manh và dù cho có giàu có, dù tiền tài có sinh sôi nảy nở đi chăng nữa cũng chẳng giải quyết được chuyện gì. Tại sao không giải quyết được? Là vì khi nhắm mắt xuôi tay có mang theo được gì đâu và sinh mạng của mỗi người nằm trong tay ai?

Mới đây không lâu, một buổi chiều trung tuần tháng 1. Một linh mục thân quen vừa từ trên lầu xuống để đi dâng Lễ bỗng dưng té ngã. Anh em đưa vị linh mục ấy đi cấp cứu và rồi vừa vào nhà thương thì tim đã ngưng đập. Cố gắng hết sức chạy chữa nhưng không qua khỏi.

Được biết sáng hôm ấy thì địa phận Mỹ Tho phải ngậm ngùi chia tay với cha sở và cũng là giám đốc Trung Tâm Mục vụ của địa phận. Nghe đâu Ngài đang chơi thể thao với các thầy bỗng dưng té xuống. 15 giờ 30 Chúa gọi Ngài về.

Đang chuẩn bị cử hành lễ an táng cho Cha kia vừa té ngã ở chân cầu thang và được Chúa gọi về thì nghe tin nghệ sĩ ưu tú Kim Ngọc cũng vừa ra đi sau khi té ở nhà riêng. Con cái, bạn bè thân hữu không khỏi bàng hoàn trước sự ra đi của nghệ sĩ Kim Ngọc.

Đứng trước 3 cuộc ra đi vội vàng ấy những ai quen biết, những người thân trong gia đình không ai là không bàng hoàng, không thẩn thờ. 3 cuộc đời ấy, ba sinh mạng ấy chắc chắn không ai có thể ngờ được rằng đến ngày đó Thiên Chúa gọi về. Nhiều người vẫn tưởng là những người ấy không thể nào đi sớm như vậy. Trong Thánh Lễ an táng, vị giảng lễ hôm ấy ngậm ngùi thân thưa với cộng đoàn, với người quá cố rằng ngài không nghĩ rằng ngài giảng lễ an táng cho người quá cố. Lẽ ra người quá cố giảng lễ an táng cho ngài vì ngài lớn tuổi hơn người quá cố!

Lớn tuổi hơn, nhỏ tuổi hơn hay thậm chí tài giỏi hơn không quan trọng. Chuyện quan trọng là tất cả đều nằm trong lòng bàn tay của Chúa tất cả.

Chúa đã khẳng định rằng tất cả những gì mà chúng ta chưa kịp xin thì Ngài thấu hiểu. Cuộc đời của chúng ta, chúng ta chưa biết ngày nào, giờ nào nhưng Thiên Chúa biết.

Thiên Chúa vẫn mời gọi chúng ta tin tưởng, quan phòng vào lòng bàn tay từ ái của Chúa. Thái độ tin tưởng hay ngờ vực vẫn là thái độ tự do và lời đáp trả của mỗi người chúng ta.


5. Thiên Chúa quan phòng

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng quá lo lắng cho mạng sống mình: sẽ ăn gì? mặc gì? ngày mai sẽ ra sao?, mà phải tin cậy vào sự quan phòng chăm sóc của Thiên Chúa. Ngài đưa ra hai hình ảnh chứng minh sự quan phòng liên lỉ của Thiên Chúa: chim trên trời, bông huệ ngoài đồng, chúng có đáng gì đâu, thế mà Thiên Chúa vẫn hằng nuôi nấng, để ý đến, huống chi con người, vì con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa và được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc bằng chính giá máu Ngài.

Đọc kỹ bản văn của Matthêu, chúng ta thấy có bốn lần Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng quá lo lắng đến nỗi mất tin cậy vào Thiên Chúa. Khi nói như thế, Ngài muốn chúng ta đừng tìm bảo đảm nơi của cải nay còn mai mất, mà phải tìm cái cốt yếu cho cuộc đời trước đã, rồi mọi sự khác sẽ được thêm cho. Lo lắng quá cũng chẳng giải quyết được gì: "Dù có lo lắng đi nữa, hỏi có ai trong các con kéo dài đời mình thêm được một vài gang tấc không?". Tín nhiệm hoàn toàn vào Thiên Chúa không có nghĩa là sống trong thụ động, mà là cộng tác với công việc của Thiên Chúa tùy ơn gọi của mỗi người: tự giúp mình thì trời sẽ giúp cho.

Thiên Chúa biết rõ chúng ta không phải là những con chim hay bông hoa ngoài đồng, mà là những con người phải làm việc để nuôi thân và góp phần xây dựng gia đình và xã hội. Chúa dạy chúng ta "trước hết hãy tìm" nghĩa là hẫy đặt đúng chỗ công việc: việc nào trước, việc nào sau. "Trước hết hãy lo tìm Nước Chúa và sự công chính của Ngài", lời này đặt nền tảng cho người Kitô hữu trong việc chọn lựa: Thiên Chúa phải chiếm chỗ ưu tiên trong con người và công việc của chúng ta, rồi đến việc cứu rỗi bản thân và đưa người khác về với Chúa; đảo lộn trật tự này tức là đi ngược thánh ý và chương trình của Thiên Chúa.

Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta tự kiểm thảo xem từ trước đến giờ, chúng ta đã chọn Chúa hay chọn tiền bạc? Đã quá lo lắng đến vật chât hay đã luôn tín nhiệm vào Thiên Chúa quan phòng? Xin Chúa cho chúng ta biết tìm kiếm trước hết Nước Chúa và sự thánh thiện, và tin chắc rằng Chúa sẽ ban cho chúng ta mọi sự khác mỗi khi chúng ta cần đến, vì Chúa là Cha chúng ta và hằng yêu thương săn sóc chúng ta.


6. Suy niệm của ĐGM. Phaolô Nguyễn Thanh Hoan

Nghe qua bài Tin mừng này với những từ ngữ Chúa dùng như: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”, hoặc “Anh em đừng lo lắng lấy gì mà ăn… lấy gì mà mặc”, có lẽ chúng ta những doanh nhân đang theo đuổi mục đích làm ra của cải, cảm thấy lúng túng. Tin mừng muốn nói gì đây. Vì thế ta phải tìm hiểu cẩn thận để hiểu Lời Chúa hôm nay thực sự là một Tin mừng, là sự bằng an cho cuộc sống.

Trước hết bài Tin mừng này có liên quan đến bài diễn từ đầu tiên của Chúa Giêsu, cũng gọi là bài giảng về hiến chương nước Thiên Chúa, cho thấy đâu là hạnh phúc thật cho nhân loại, hay còn gọi là tám mối phúc thật với ba nội dung chính:

- Thiên Chúa Toàn Năng, đầy tình yêu thương nhân loại, chính Ngài là hạnh phúc thật của chúng ta, ngoài Người ra con người không tìm đâu được hạnh phúc, cho nên phải đặt hết tin tưởng, gắn bó yêu mến Ngài trên hết mọi sự.

- Hai là con người là anh em với nhau, vì cùng mang dấu ấn Thiên Chúa nới mình. Cần theo đuổi cuộc sống đầy tình người, sống tinh thần hòa bình, khoan dung tha thứ, chân thành trong sáng và đặc biệt phải biết thương yêu những người yếu kém trông cộng đoàn.

- Ba là trước mọi gian nan thử thách, kể cả sự bắt bớ ngược đãi vì Tin mừng, hãy coi đây là cơ hội để làm chứng lòng trung tín và hy vọng nơi Thiên Chúa của mình.

Sau bài diễn từ quan trọng đó thì Chúa đem ra nhiều trường hợp cụ thể để thực hành cho đạt tới Hạnh phúc thật đó. Và coi chừng những trở ngại có thể làm ta sai lạc mục tiêu hạnh phúc thật. Một trong các trở ngại đó là vấn đề của cải, của cải có thể trở thành tà thần đầy nguy hiểm.

Trước vấn đề của cải, Chúa cẩn thận dạy các tông đồ: “Người ta không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi của cải được” hoặc “anh em đừng lo lắng lấy gì mà ăn…lấy gì mà mặc” thế là gì? Nhu cầu sự sống như cơm áo, phương tiện giao dịch của thời văn minh như tiền bạc, trương mục ngân hàng ta phải lo cho có để dùng mới được. Thực ra ở đây Chúa không kết án tiền bạc mà Chúa đề cập đến cách làm ra và sử dụng tiền bạc. Chúa nói “đừng lo lắng”, không có nghĩa là đề cao những người biếng nhác, những người vô trách nhiệm, siêng ăn nhác làm, không quan tâm đến gia đình con cái. Chúa cũng không phê phán những người lập ra những kế hoạch, lên chương trình trong công việc làm ăn. Kinh tế thị trường kinh tế tự do, không biết lo là thất bại. “Đừng lo lắng” ý Chúa muốn nói, phải kết hợp sao cho hài hòa giữa công việc làm ăn, với niềm tin vào Thiên Chúa Tình yêu, Ngài đang tham dự vào đời sống chúng ta. Trong đời sống đó có phần cố gắng của chúng ta, mà có cả quyền năng yêu thương của Thiên Chúa. Cái thất bại của con người tại vườn địa đàng là họ đã bỏ Thiên Chúa tin vào satan và kế hoạch riêng tư đầy kiêu căng của mình.

Sự tham dự của Thiên Chúa vào đời ta là kế hoạch kỳ diệu ta không tưởng tượng được. Tại tiệc cưới Cana, trông khi người ta cần mười lít rượu là cùng, nhờ lời Đức mẹ, Chúa tham dự giải quyết cuộc khủng hoảng với 600 lít rượu tặng đôi tân hôn. Tại bãi biển hoang vu, các tông đồ chỉ kiếm được năm chiếc bánh và mấy con cá, Chúa biến thành cả núi cá và bánh cho 4.000 người ăn no mà còn dư. Cho nên trong việc làm ăn, hãy biết trông cậy vào Chúa để Ngài yêu thương giúp đỡ. Bông hoa sớm nở chiều tàn, hay con chim bé nhỏ Chúa còn thương phương chi con người là con của Chúa.

Khi nói người ta không thể làm tôi hai chủ: vừa Thiên Chúa vừa tiền bạc. Ý Chúa muốn giải thoát, muốn tránh cho ta thói tham lam, lấy thế lực vạn năng mạnh mẽ của tiền của để bảo đảm tương lai, người ta coi tiền tài như thần thánh và tìm kiếm bằng bất cứ giá nào. Người ta quên thời gian hiện tại và hạt giống của tương lai, chỉ đi tìm của cải mà đánh mất tương lai đời đời thì đó là người ngu dại. Để làm sáng tỏ vấn đề Chúa lấy chuyện người phú hộ làm thí dụ, ông làm kinh tế giỏi, ông lập kế hoạch lớn, làm nhiều kho lẫm, và cho thế là an toàn, thủ hưởng lâu dài suốt đời. Nhưng Chúa bảo hắn: “Đồ ngu, nội đêm nay người ta cất linh hồn ngươi về thì những của cải đó ngươi để cho ai?”

Nhớ lại câu chuyện ông Giakêu, suốt một quá khứ dài ông mãi mê tìm tiền của, làm giàu bất chính. Vậy mà hạnh phúc chưa thấy vì lòng vẫn còn đói tiền của, trong khi những tiếng phê phán chê bai chỉ làm cho ông chán ngấy cuộc đời. Vậy mà sau một đêm, Lời Chúa soi sáng cho ông thấy rõ chân lý giá trị của hiện tại, ông đã có một quyết định thật lớn lao: “Ông sẵn sàng lấy một nữa gia tài cho người nghèo, đền lại gấp bốn sự thiệt hại ông đã gây ra cho kẻ khác.”, lúc đó Chúa nói ngay với ông: “Hôm nay ơn cứu độ đến với nhà này” (Lc19,9). Hai tiếng “hôm nay” ở đây rất quan trọng vì nó cho ta thấy Chúa hiện diện ngay lúc chúng ta làm việc bác ái để ghi công đời đời cho chúng ta. Cuộc sống này là thời kỳ gieo tỉa, mùa gặt sẽ đến mai sau. Nhưng kết quả việc bác ái là của cải cho đi đã trở thành hồng phúc vinh quang Chúa cất sẵn trên trời cho chúng ta.

Dụ ngôn Cuộc phán xét chung cho chúng ta thấy rõ điều đó. Ở đây không thấy nói đến đạo nào, chức vị nào mà chỉ nói đến Tình Yêu. Lúc đó Chúa cho người ta thấy việc bác ái thực hành là tiêu chuẩn duy nhất làm cho chúng ta được thưởng công đời đời, vì mỗi lần giúp đỡ người nghèo là giúp cho chính Chúa. Chúa nói với họ: “Nào những kẻ Cha ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ tạo Thiên lập địa.Vì xưa Ta đói các ngươi cho ăn; Ta khát các ngươi cho uống; Ta là khách lạ các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù các ngươi đã hỏi han”. Người ta sẽ ngạc nhiên hỏi Chúa: Có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống đâu? Chúa đáp: “Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của ta là các ngươi đã làm cho chính ta vậy”. Đó là những người được tuyển chọn. Còn những người bị loại, bị xua đuổi vào lửa đời đời dành cho ác quỉ, thì lý do cũng là không biết thương những người đói khát, bơ vơ…v.v. Anh em thấy rõ Thiên đàng chúng ta ở đâu? Đó chính là “Tình Yêu”, là trân trọng và yêu thương con người vì có Chúa ở nơi họ. Như vậy các việc lành khác thì sao? Có cần không? Tất cả đều hướng về Tình yêu là điều răn trọng nhất.

Nói tóm lại, hiện tại ta hướng về Tình yêu thì Thiên Chúa Tình yêu sẽ đón nhận ta. Ta chỉ biết hướng về mình để dùng của cải phục vụ cho mình và gia đình thì chúng ta mất sự sống đời đời. Chúng ta chọn đường nào? Bài Tin mừng kết luận: “Trước hết anh em hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người…”. Nước Thiên Chúa là Tình Yêu. Sự công chính của Ngài cũng là Tình Yêu, vì Ngài là Tình Yêu.

Cách đây không lâu, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI trong thông điệp Tình Yêu và chân lý, Ngài đã khẳng định rằng: “Mọi sự bắt nguồn từ Tình Yêu, mọi sự được định hướng trong Tình Yêu và mọi sự sẽ kết thúc trong Tình Yêu”.

Người doanh nhân có công làm cho tiền của luân chuyển để cho dân giàu nước mạnh thật là quý trông thời kỳ kinh tế thị trường này. Nhưng khi thành công ta phải biết chia sẻ cho người nghèo thì mới đúng nghĩa doanh nhân công giáo. Vì chỉ chờ cho đến lúc giàu có nhiều của mới chia sẻ thì đã bỏ mất cái ngày Hôm Nay. Chúa còn nói thêm: “Anh em đừng lo lắng về ngày mai, ngày mai có cái khổ của ngày mai.


7. Chọn Thiên Chúa hay tiền của

(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

A. DẪN NHẬP

Cuộc đời là một chuỗi những sự lựa chọn. Bất cứ ai đều phải có sự lựa chọn cho đời sống của mình về phương diện tinh thần cũng như vật chất. Trên bình diện tôn giáo, Đức Giêsu đã chỉ dẫn cho chúng ta cách lựa chọn:”Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền của được”(Mt 4,24). Và Ngài đã đòi chúng ta một sự lựa chọn dứt khoát: một là Thiên Chúa, hai là Tiền của. Chúng ta có quyền tự do lựa chọn và phải gánh chịu hậu quả về sự lựa chọn đó.

Chúng ta là những người khôn ngoan đã dứt khoát chọn lựa Thiên Chúa vì chúng ta là con của Ngài, đã được dựng nên giống hình ảnh Ngài. Một khi đã chọn Thiên chúa, chúng ta phải tuyệt đối yêu mến và tin tưởng vào sự quan phòng của Ngài. Chúa khuyên chúng ta đừng quá lo lắng về cơm ăn áo mặc, hãy nhìn xem chim trời, hoa cỏ đồng nội thì biết. Nhưng chúng ta phải lưu ý: Chúa khuyên chúng ta đừng “lo lắng” nhưng phải biêt “lo liệu”. Lo lắng là dấu chỉ chưa đủ tin tưởng vào Chúa, còn lo liệu là biết khôn ngoan sắp đặt mọi sự trong hiện tại cũng như trong tương lai trong sự yêu mến và tin tưởng phó thác cho Chúa.

Tin tưởng phó thác vào Chúa quan phòng không có nghĩa là ỷ lại, để cho Chúa lo mọi sự, nhưng trái lại, phải có sự cộng tác của chúng ta. Đây là bằng chứng: ngày từ đầu Thiên Chúa đã trao trái đất cho con người coi sóc, Đức Giêsu đã làm nghề thợ mộc tại Nazareth và thánh Phaolô cũng chủ trương ai không làm việc thì không có quyền ăn. Vậy, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cứ làm việc bình thường, đừng bồn chồn lo lắng. Hãy quên đi quá khứ, hăng say làm việc trong hiện tại và đặt tương lai vào trong bàn tay Chúa quan phòng.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1: Is 49,14-15

Dân Israel bị lưu đày bên Babylon, sống cơ cực dưới sự đè nén của ngoại bang, họ đâm ra chán nản, thất vọng. Họ cho rằng Thiên Chúa đã quên họ. Họ đã bị bỏ rơi. Niềm tin bị giảm sút.

Nhưng tiên tri Isaia đã khẳng định với dân: Thiên Chúa không bao giờ bỏ quên họ bởi vì họ là con của Ngài. Ông đưa ra một hình ảnh sống động và cụ thể: có người mẹ nào mà bỏ quên con mình? Cho dù người mẹ có bỏ quên con mình đi nữa thì Thiên Chúa sẽ không bao giờ bỏ quên đâu.

+ Bài đọc 2: 1Cr 4,1-5

Tín hữu Corintô có nhiều tinh xấu như óc bè phải, tính kiêu căng, tự phụ. Hôm nay thánh Phaolô nhắc nhở họ phải đề phòng một tính xấu khác, đó là xét đoán.

Thực ra, không ai biết được con tim khối óc của người khác, chỉ là phỏng đoán, duy một mình Thiên Chúa mới biết được chính xác. Vì thế, mọi người hãy dành quyến xét xử cho Thiên Chúa “Đấng thấu suốt lòng mọi người”.

+ Bài Tin mừng: Mt 6, 24-34

Hôm nay Đức Giêsu nói với cả người giầu lẫn người nghèo phải biết lựa chọn. Chỉ có hai con đường để lựa chọn, đó là phụng sự Thiên Chúa hay phụng sự Tiền của.

Phụng sự Thiên Chúa là sống theo Tin mừng, theo Hiến chương Nước Trời và tìm kiếm sự công chính của Thiên Chúa, nghĩa là tìm biết và thi hành thánh ý Ngài.

Nếu phụng sự Chúa thì phải tin vào Chúa quan phòng. Đành rằng chúng ta phải làm việc để giải quyết đời sống vật chất như cơm ăn áo mặc… nhưng chúng ta phải dành ưu tiên cho việc tìm kiếm Nước Trời, còn mọi sự khác Ngài sẽ ban cho.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA

Bắt cá hai tay

Người Việt nam chúng ta thường dùng câu tục ngữ “Bắt cá hai tay” để chỉ những người tham lam, mưu cầu nhiều việc. Ta phải hiểu câu tục ngữ này như thế nào? Nhân dân ta hiểu câu tục ngữ này theo nghĩa đen là: mỗi tay bắt một con, và kết quả là tuột mất hết chẳng bắt được con cá nào. Chẳng thế mà ca dao Việt nam đã từng khuyên nhủ mọi người:

Thôi đừng bắt cá hai tay

Cá thì xuống bể, chim bay về ngàn.

Câu tục ngữ này có thể minh họa một phần nào lời Đức Giêsu nói trong bài Tin mừng hôm nay:”Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia; hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ kia. Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền của được” (Mt 6,24).

I. PHẢI BIẾT CHỌN LỰA

1. Lựa chọn là điều cần thiết

Ngày nay người ta nói nhiều đến dấn thân. Dấn thân, nhập cuộc là thân phận của con người. Sống là dấn thân, mà dấn thân thì phải lựa chọn. Sống là một chuỗi những lựa chọn. Chính những lựa chọn này sẽ làm cho người ta thành công hay thất bại, trở thành người tốt hay người xấu, được hạnh phúc hay phải đau khổ. Đã chọn lựa điều này thì phải bỏ điều kia. Từ bỏ bao giờ cũng là một giằng co, nuối tiếc.

Đức Giêsu muốn các môn đệ của Ngài phải chọn lựa dứt khoát, không có thái độ lưng chừng hoặc bắt cá hai tay. Người bắt cá hai tay bao giờ cũng là kẻ thua thiệt nhất. Hôm nay phải chọn lựa hoặc Thiên Chúa hoặc Tiền của.

2. Phải chọn lựa thế nào?

a) Thời xa xưa, trong thời vua Achab trị vì, dân Israel đã bỏ Chúa mà đi thờ dân ngoại Baal. Tiên tri Êlia đã hô hào dân chúng hảy trở về với Thiên Chúa, phải dứt khoát lựa chon:”Các ngươi nhảy khập khiễng hai chân cho tới bao giờ? Nếu Đức Chúa là Thiên Chúa, hãy theo Người; còn nếu là Baal thì cứ theo nó” (1V 18,21)

b) Thời nay, Đức Giêsu cũng cảnh báo cho những người tôn thờ tiền của như sau:”Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền của được” (Mt 6,24)

* Ý nghĩa chữ “Tiền của”

Tiền của ở đây được viết bằng chữ hoa, tiếng Aram là MAMMON, có nghĩa là Tiền của. Nếu tiền được thần hóa như thế, thì sức mạnh thống trị của nó không thể coi thường. Nếu tiền và Thiên Chúa đã được Đức Giêsu đưa lên bàn cân để người ta lựa chọn, thì quyền lực của nó phải là vô song.

* Ý nghĩa chữ “tôi” và “chủ”.

Đối với người xưa “không ai được làm tôi hai chủ” có ý nghĩa hơn đối với chúng ta. Từ ngữ là “tôi” trong nguyên ngữ Hy lạp là “nô lệ”, làm nô lệ cho; còn từ “chủ” để chỉ quyền sở hữu tuyệt đối. Ý nghĩa câu này sẽ rõ hơn nếu chúng ta dịch: không ai có thể làm nô lệ cho hai ông chủ.

Để hiểu ý nghĩa, có hai điều chúng ta cần nhớ về người nô lệ thời xưa. Nô lệ, trong quan điểm luật pháp, không phải là một con người mà là một đồ vật. Nô lệ tuyệt đối không có gì cả, chủ có thể sử dụng nô lệ thế nào cũng được. Đối với luật pháp, nô lệ là một dụng cụ sống, ông chủ có thể bán, đánh đập, quăng ra ngoài hoặc giết đi, vì ông ta sở hữu người nô lệ y như sở hữu một đồ vật. Thứ đến, nô lệ thời xưa không có chút thời giờ nào là của riêng. Mỗi giây phút của đời sống nô lệ đều thuộc về chủ…

Đây chính là mối dây liên hệ của chúng ta đối với Thiên Chúa, ta không có quyền gì cả. Thiên Chúa là chủ tuyệt đối. Không bao giờ chúng ta được hỏi: tôi muốn làm gì? Nhưng luôn luôn hỏi: Chúa muốn tôi làm gì?

3. Nguy hại của thần Mammon.

Thần Mammon hay thần Tiền của có một sức mạnh vạn năng, nó giải quyết phần lớn các nhu cầu của con người, nên tiền của hấp dẫn lạ lùng. Người Vệt nam chúng ta có câu:

Có tiền mua tiên cũng được

Hoặc:

Mạnh về gạo, bạo về tiền

Lắm tiền, nhiều gạo là tiên trên đời.

Ngay cả việc đạo cũng phải có tiền mới xong:

Có thực mới vực được đạo.

Nguyên ngữ Mammon chỉ có nghĩa là của cải vật chất. Nguyên nghĩa của nó không phải là một chữ mang ý nghĩa xấu. Các rabbi Do thái vẫn dạy:”Hãy quí trọng mammon của người khác như của chính ngươi”, nghĩa là mọi người phải coi tài sản vật chất của người khác quí trọng như tài sản của mình.

Tiền của là như vậy, nhưng tại sao Đức Giêsu lại gay gắt với tiền của như thế? Thật ra, Ngài không lên án tiền của, Ngài chỉ cảnh báo những ai ham mê của cải mà thôi. Hay nói cách khác, Thánh Kinh đã nói:”Lòng ham tiền của là cội rễ mọi điều ác” (1Tim 6,10).

Và chúng ta phải công nhận rằng tiền của là phương tiện hữu hiệu Chúa ban, để bảo tồn sự sống đời này, và để mua Nước Thiên đàng đời sau. Tự bản chất của tiền là tốt, nó là hồng ân Thiên Chúa tặng ban cho con người.

Tiền của chỉ trở nên xấu khi ta quá tôn thờ nó, như một ông chủ sai khiến hành hạ đời ta, thậm chí lấy luôn mạng sống ta.

Tiền của chỉ trở nên đáng ghét khi ta quá tham lam thu tích nó mà quên đi bổn phận chia sẻ với anh em, như người giầu có xử tệ với Lazarô nghèo khó.

Tiền của chỉ trở nên án phạt khi ta quá ham mê nó mà từ bỏ Thiên Chúa, như Giuđa bán Thầy vì mê 30 đồng bạc.

Tiền của chỉ trở nên cạm bẫy khi ta quá bám víu vào nó mà không còn tin cậy vào Thiên Chúa quan phòng, như người phú hộ ham hưởng khoái lạc không kịp ăn năn.

Vì thế, Đức Giêsu thật có lý khi cấm chúng ta không được làm tôi tiền của. Ngài cảnh báo như thể để mưu cầu hạnh phúc đời đời cho chúng ta.

Truyện: Nô lệ hay tự do

Hôm ấy, trời vừa rạng đông, ông hoàng nói với tên đầy tớ:”Xem chừng anh mơ ước giầu có lắm. Vậy từ giờ này cho đến lúc mặt trời lặn, anh có sức ngần nào thì cứ chạy. Tất cả nhữngg ruộng vườn, ao cá anh chạy vòng quanh được, ta cho anh hết”.

Anh vui sướng quá! Cha chết sống dậy cũng không bằng. Anh liền cắm đầu chạy, chạy vùn vụt như Hạng Vũ trên con ngưa Ô-Truy. Chín mười tiếng đồng hồ qua, chàng làm chủ được mấy cánh đồng bao la bát ngát. Chàng vừa dừng chân, thì một hồ cá mênh mông với mặt nước trong ngần huyền ảo phán chiếu ánh mặt trời đã xế chiều. Chang lại chạy tiếp. Sau cùng, màn đêm buông rơi. Chàng hổn hển quay bước trở về, để làm bậc tỷ phú với “Ruộng vườn cò bay thẳng cánh, ao hồ mặc sức cá đua”.

Nhưng vừa bước chân vào ngưỡng cửa, chàng ngã lăn xuống bất tỉnh. Vợ con vội vàng thuốc thang săn sóc… Nhưng vô hiệu. Nhà tỷ phú đã trút linh hồn sau một ngày dài lao lực quá mức. Người ta đào cho chàng một chỗ nghỉ trong lòng đất, vừa dài, vừa rộng, nhưng không quá ba tấc đất.

Đó là kết cục của một con người ham mê tiền của, để nó sai khiến như một tên nô lệ, phải vắt cạn kiệt sức lực cho tới chết, mà không được mảy may hưởng dùng.

Sự nô lệ cho tiền của là một bệnh “ung thư” thật sự của xã hội chúng ta. Nhắc lại như thế là việc tầm thường. Nền văn minh Tây phương đang tự phá hủy chính mình dưới nhịp độ dữ dội mà cuộc chạy đua đuổi theo cái “tiện nghi”, cái “xa hoa”, những đồ dùng lạ mắt bắt ép nền văn minh ấy. Chính con người trở thành nạn nhân của “đồ bỏ đi ấy của Satan” như cách gọi của tác giả người Ý, Papini.

II. TIN VÀO CHÚA QUAN PHÒNG

1. “Đừng lo lắng về của ăn áo mặc”

Tiếp theo việc phải chọn lưa giữa Thiên Chúa và Tiền của, Đức Giêsu khuyên chúng ta đừng lo lắng về cơm ăn áo mặc, hãy xem chim trời và hoa đồng nội, chúng sống thế nào!

Chúng ta cần phân biệt giữa “lo lắng” và “lo liệu”. Chúa bảo chúng ta đừng lo lắng chứ không phải đừng lo liệu. Lo lắng vì không tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng. Mọi lo lắng đều liên hệ đến tương lai, mà tương lai là điều chưa có thật. Trái lại, lo liệu là vẫn lo làm việc hôm nay, tiên liệu cho ngày mai, nhưng luôn tin cậy phó thác cho Chúa.

Lo lắng chủ yếu là không tín thác vào Chúa. Sự không tín thác như thế có thể hiểu được nơi người ngoại giáo với tin tưởng vào một thần linh ganh tị, thất thường, không thể đoán trước được, nhưng không thể hiểu được nơi một người đã học gọi Thiên Chúa là Cha. Khi chúng ta đặt chính mình vào đôi tay của Thiên Chúa, chúng ta mở lòng mình để hưởng nhờ ơn Chúa bảo vệ chúng ta. Và chúng ta có thể sống đời sống của mình và cử hành giây phút hiện tại.

2. Hãy tin vào Chúa quan phòng

Quan phòng là hành động của Thiên Chúa hướng dẫn con người và thế giới cách nào đó mà ta không ngờ. Nó không phải là định mệnh, hay số mệnh như quan niệm bình dân. Bình dân hiểu: số mệnh, định mệnh là sự ấn định trước cho mỗi người phải chịu một kiếp sống tốt hay xấu, sướng hay khổ, thành hay bại giống như rút thăm, rút số ghi sẵn cái gì thì phải lãnh cái đó.

Quan phòng là việc của người Cha khôn ngoan sáng suốt, đầy tình thương mến, hy sinh tận tụy lo toan cho con, nhưng cũng rất tôn trọng tự do sáng kiến của con, khi con hết lòng yêu mến, kính phục Cha, nó sẽ hết lòng vâng theo lời hay lẽ phải của Cha.

Phụng vụ Chúa nhật hôm nay nhắc nhở cho ta điều mà ta không bao giờ được quên là ta tùy thuộc vào Chúa từng hơi thở. Chúa là Chúa các tạo vật. Ngài nắm quyền ban sự sống và đem lại cái chết. Ngài cầm vận mạng mọi loài trong tay.

Trong bài đọc 1, tiên tri Isaia nhắc nhở cho dân chúng là ngay cả khi họ bị lưu đầy bên Babylon, Chúa vẫn nhớ họ và không bỏ rơi họ. Mặc dầu bị án phạt, Chúa vẫn nhớ họ và giải thoát họ khỏi nô lệ. Sứ điệp của tiên tri Isaia bảo ta là phải đặt tin tưởng phó thác vào Chúa, ngay cả trong những ngày đen tối, bởi vì Thiên Chúa không bỏ rơi dân Người. Isaia còn đưa ra hình ảnh người mẹ với đứa con, không bao giờ người mẹ bỏ quên con, và giả như người mẹ có quên con đi chằng nữa thì Thiên Chúa cũng không bao giờ bỏ ta là con Ngài.

Tin mừng cũng nói lên một sứ điệp tương tự Lời Chúa vang dội bên tai ta như là lời an ủi vỗ về:”Các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: chúng ta sẽ ăn gì, uống gì hoặc sẽ lấy gì mà mặc… Cha trên trời biết rõ chúng con cần những sự đó” (Mt 6,31-32).

Truyện: Người mẹ không quên con

Một phụ nữ nghèo nàn ở trong một giáo xứ tại Dublin có một đứa con trai và đứa con này làm tan nát đời bà.

Anh ta không chịu làm việc mà dùng thời giờ để uống rượu và la cà với những kẻ phá rối. Anh lấy trộm hết những vật có giá trị của bà trong nhà. Bao nhiêu lần, bà đã cầu xin anh thay đổi đời sống, nhưng anh từ chối không làm. Anh làm cho trái tim mẹ anh tan nát và đời sống bà trở nên khốn khổ.

Có lúc anh ta phải vào tù. Hẳn là bà bỏ mặc anh ta? Không đời nào. Bà đến nhà tù thăm anh ta không bỏ tuần nào, mỗi lần đều mang theo thuốc lá và những đồ dùng khác cho anh ta trong một cái bao nhỏ. Một ngày nọ, một linh mục trong giáo xứ gặp bà lúc bà đang trên đường đến nhà tù.

“Đứa con trai này làm đời bà tan nát” vị linh mục nói. “Nó sẽ không bao giờ thay đổi. Tại sao bà không quên nó đi”?

“Làm sao tôi có thể quên nó được”? bà đáp lại. “Tôi không thích việc nó làm nhưng nó vẫn là con tôi”.

Bạn có thể nói rằng người mẹ ấy điên. Tuy nhiên bà chỉ làm điều mà bất cứ bà mẹ nào đúng nghĩa một bà mẹ không thể không làm, đó là yêu thương con của mình dù ở hoàn cảnh nào. Một bà mẹ không bao giờ bỏ cuộc. Đối với hầu hết chúng ta, tình thương của bà mẹ là một tình yêu của con người đáng tin cậy nhất. Nên không lạ gì khi Kinh Thánh dùng tình yêu của bà mẹ như một hình ảnh của tình yêu Thiên Chúa (McCarthy).

3. Quan phòng và hành động.

Tin vào Chúa quan phòng không phải là trao hết mọi việc vào tay Chúa rồi sống ỷ lại với tư tưởng:”Trời sinh voi, trời sinh cỏ” rồi “ngồi há miệng chờ sung rụng”. Tin Chúa quan phòng không được mang tính cách thụ động, không phải thái độ vô vi, yếm thế, buông trôi. Đức tin chân chính phải thể hiện bằng việc làm, càng tin, càng phải đem hết sức mình cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa: biết xây dựng trần thế tốt đẹp như khi Ngài dựng nên mọi sự tốt đẹp.

Nếu Đức Giêsu nói:”Các con không phải làm gì cả, cứ tin vào Chúa quan phòng” thì tại sao trong toàn bộ Thánh Kinh, ngay từ đầu, Thiên Chúa đã nói điều ngược lại? Chương đầu tiên của sách Sáng thế đã cho chúng ta lệnh truyền:”Hãy thống trị đất và bắt nó pục tùng”.

Thật ra, Đức Giêsu khẳng định:”Vì thợ đáng được nuôi ăn”(Mt 10,10). Điều này được hiểu ngầm rằng người nào không làm việc, người đó không có quyền ăn như thánh Phaolô kết luận (2Tx 3,10). Và cũng phải đọc lại lời lên án nghiêm khắc của người đã không làm sinh lợi nén bạc mà người đó đã lãnh nhận (Mt 25,14-30). “Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài”.

Vả lại, Ở Nazareth, Đức Giêsu đã có một nghề nghiệp: Ngài đã trải qua kinh nghiệm sống đổ mồ hôi, sôi nước mắt. Và cũng như 20 gia đình tạo thành ngôi làng nhỏ miền quê ấy, Ngài cũng phải sở hữu ít đồng ruộng và một vài gia súc. Đức Giêsu hoàn toàn biết rằng tiền bạc có ích và cần thiết cho cuộc sống.

Nhà nho cũng hiểu điều đó khi nói:”Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức”: trời hành động kiên cường thế nào thì quân tử cũng phải tự cường, hết sức làm như thế, không ngưng nghỉ. Quân tử là con trời, con vua, là hiền nhân, minh triết, phải biết tri thiên mệnh: biết ý trời, biết mệnh lệnh của trời để làm theo. Tin có thiên mệnh, tin cáo đạo Trời, chính là tin Thiên Chúa quan phòng sắp xếp mọi trật tự cho muôn loài trong trời đất.

Nhà nho chân chính Nguyễn công Trứ luôn luôn kiên cường hành đạo không mỏi mệt, không vụ danh lợi, dù làm tướng, làm quan hay làm lính “vẫn ra tay buồm lái với cuồng phong”. Nhờ thế, ông đã biến biển cả thành nương dâu, đồng ruộng Kim Sơn, Tiền Hải cho nhân dân ấm no. Nhất là ông đã biến những con người yếm thế thành những nam nhi anh hùng:”Chí những toan xẻ núi lấp sông”, biến những tâm hồn tham danh lợi thành trong sáng thanh tao:”Chẳng lợi danh gì lại hóa hay”. Một con người đầy chí khí không cầu thành công danh lợi, chỉ cầu thành nhân mưu ích cho đời:”Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.

Đức Giêsu đâu có thành công lúc sinh thời, nhưng đã thành Đấng Cứu Độ của muôn dân.

III. TÌM CÁI ƯU TIÊN CHO CUỘC SỐNG

Trong tất cả các tạo tạo vật nơi vũ trụ và tất cả các sinh vật trên mặt đất, mối quan tâm trước tiên của Chúa là con người, vì con người là một tuyệt tác phẩm của Thiên Chúa. Nếu Chúa quan tâm đến chim trời, đến hoa đồng cỏ nội, thì Chúa còn quan tâm hơn gấp bội đến con người, được tạo dựng giống hình ảnh của Chúa.

Nhưng chúng ta phải đặt vấn đề và giải quyết: Tại sao với đủ mọi thứ bảo hiểm cho thân xác mà ta vẫn cảm thấy bồn chồn lo lắng, chưa có hạnh phúc? Thưa, vì ta thiếu bảo hiểm cho tâm hồn. Khi mà chủ thể, cùng đích và lẽ sống của ta không phải là Chúa nhưng là thứ gì khác, và khi thứ khác đó bị mất đi, ta sẽ ngã gục, vì không còn gì để bám víu. Chúa không muốn ta để cho những hoàn cảnh hay trạng huống của cuộc sống điều khiển và chi phối. Chúa muốn ta sống thế nào để có thể cảm nghiệm được tình yêu và quan phòng của Chúa từ lúc này qua lúc khác, từ ngày nọ qua ngày kia. Để được như vậy, ta cần chiêm niệm Lời Chúa:”Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn mọi sự khác, Người sẽ ban cho”(Mt 6,33).

Truyện: Nguyên tắc sinh tồn

Một giáo sư thực vật học, tay cầm một hạt giống nhỏ mầu nâu và nói với cả lớp rằng:

- Tôi biết rõ hợp chất của hạt giống này. Nó gồm Hydro, carbon và nitro. Tôi biết đúng tỉ lệ và có thể tạo ra một hạt giống khác trông y như hạt giống này.

Một học sinh đứng lên hỏi:

- Thưa thầy, nếu đem hạt giống thầy chế tạo đó mà gieo xuống đất, nó có thể mọc lên không ạ?

Giáo sư trả lời:

- Với hạt giống của tôi, điều đó không thể được. Nhưng nếu tôi đem hạt giống mà Thiên Chúa đã làm ra, nó sẽ mọc lên thành cây, vì nó chứa đựng nguyên tắc mầu nhiệm mà chúng ta gọi là nguyên tắc sinh tồn.

Hạt giống là một cái gì chứa đựng sự sống. Con người, có thể với sự tài giỏi của khoa học, tạo ra những hạt giống tương tự hoặc tạo ra những người máy robot, song không thể tạo ra được sự sống được. Quyến sống chết chỉ duy nhất ở trong tay Thiên Chúa thôi.

Nếu Chúa đã nói:”Các con đừng lo lắng về ngay mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó”(Mt 6,34) thì chúng ta phải hiểu là: quá khứ đã qua đi rồi, hãy quên nó đi; hiện tại đang nằm trong tay, phải chu toàn nó; tương lai là của Chúa, hãy phó thác cho Ngài và sống trong an bình thư thái.


8. Suy niệm của Lm Ignatiô Hồ Thông

Chúa Nhật VIII Thường Niên này nói về ơn quan phòng của Thiên Chúa, gợi lên tấm lòng trìu mến yêu thương của Thiên Chúa.

Is 49,14-15

Qua vị ngôn sứ của Ngài, Thiên Chúa khẳng định cho dân Ngài rằng Ngài ân cần chăm sóc họ như tấm lòng của người mẹ đối với con thơ bé bỏng của bà.

Mt 6,24-34

Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu miêu tả Thiên Chúa ân cần chăm sóc con người như một người cha hằng quan tâm đến những nhu cầu của con cái mình, và còn quan tâm đặc biệt hơn đối với những ai đặt quyền ưu tiên cho việc tìm kiếm Nước Trời và cho những đòi hỏi của sự thánh thiện như điều kiện của Nước Trời.

1Cr 4, 1-5

Bài đọc II không cho thấy những mối liên hệ với hai bài đọc kia: nó là đoạn trích sau cùng từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô như một lời kết luận. Thánh Phao-lô công bố rằng thánh nhân thực hiện sứ mạng của mình như một người quản lý trung thành của những mầu nhiệm Thiên Chúa. Các tín hữu Cô-rin-tô không có quyền tranh cãi về phẩm chất sứ điệp của thánh nhân. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền phán xét.

BÀI ĐỌC I (Is 49,14-15)

Tin Mừng Chúa Nhật này trình bày Thiên Chúa như một người cha, quan tâm đến những nhu cầu của con cái mình. Bản văn Cựu Ước trình bày cho chúng ta Thiên Chúa như một người mẹ, đầy trìu mến yêu thương đứa con thơ của mình.

Tác giả ca tụng tình mẫu tử của Thiên Chúa đối với dân Ngài là ngôn sứ I-sai-a đệ nhị. Ông thi hành sứ vụ của mình bên cạnh những kẻ lưu đày ở Ba-by-lon. Tác phẩm của ông xứng đáng với nhan đề “Sách An Ủi” (40-55): ông hứa với những người bất hạnh này cuộc giải phóng gần kề và cuộc hồi hương sắp đến rồi. Trong những chương cuối cùng, từ chương 48 đến chương 55, vị ngôn sứ nhấn mạnh những viễn cảnh về một Giê-ru-sa-lem được hồi sinh từ hoang tàn đổ nát, sẽ gặp lại cảnh huy hoàng thịnh vượng như xưa, vì Đức Chúa không quên Thành Thánh Xi-on, đại diện toàn thể đất nước.

1. Lời phàn nàn của Giê-ru-sa-lem:

“Xi-on từng nói: ‘Đức Chúa đã bỏ rơi tôi, Chúa Thượng đã quên tôi rồi’”.

Lời phàn nàn của Giê-ru-sa-lem này mở ra phần thứ hai tác phẩm của vị ngôn sứ. Phần thứ nhất được thống trị bởi lời phàn nàn của những người lưu đày, họ nghĩ rằng Thiên Chúa không còn bận lòng đến số phận của họ: “Hỡi Gia-cóp, sao ngươi nói, hỡi Ít-ra-en, sao ngươi bảo: ‘Đường tôi đi, Đức Chúa không nhìn thấy, quyền lợi của tôi, Thiên Chúa chẳng đoái hoài?’” (40: 27). Đức Chúa đã nhắc nhở cho họ rằng Ngài là Đấng sáng tạo toàn cõi đất và là Đấng làm chủ mọi biến cố: Ngài có thể lật đổ kẻ áp bức, cho sa mạc nở hoa, vân vân.

Thành Thánh hoang tàn đổ nát và thưa thớt dân cư: biểu thị dân Thiên Chúa bất hạnh, than thân trách phận như một người vợ bị Thiên Chúa dứt tình đoạn nghĩa (hình ảnh đến từ các ngôn sứ, đặc biệt ngôn sứ Hô-sê). Thiên Chúa trả lời khi công bố rằng Ngài yêu thương dân Ngài bằng trọn cả một tấm lòng, một tình yêu sắc son, không tì vết, như người mẹ hiền tận tình yêu thương đứa con thơ bé bỏng của mình.

2. Tình mẫu tử của Thiên Chúa:

Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã thường diễn tả tấm lòng của Thiên Chúa đối với dân Ngài bằng động từ “thương” mà ngữ căn của nó có cùng một ngữ căn của từ “réhem” chỉ “dạ mẹ” (Isaiah 49:10,15; 55:7). Ngôn sứ I-sai-a đệ tam lấy lại động từ này từ thầy mình khi ông viết: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dẫu nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ”. Chắc chắn đây là cách diễn tả tình yêu Thiên Chúa gây xúc động nhất mà chúng ta gặp thấy trong Kinh Thánh.

Thật ra, hai thế kỷ trước đó, trong vương quốc phương Bắc, ngôn sứ Hô-sê đã ca ngợi tình yêu của Thiên Chúa đối với dân Ngài, được sánh ví với tình yêu rất mực thủy chung của người chồng đối với vợ của mình hay của hôn phu đối với vị hôn thê của mình. Tuy nhiên, ông không phải là không biết những khía cạnh khác của tình yêu Thiên Chúa đối với dân Ngài: “Khi Ít-ra-en còn là đứa trẻ, Ta đã yêu nó….Ta đã tập đi cho Ép-ra-im, đã đỡ cánh tay nó…Ta xử với chúng như nguwofi nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào má; Ta cúi xuống gần nó mà đút cho nó ăn” (Hosea 11:1-4). Sau này, vài thập niên trước ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã đặt trên môi miệng Đức Chúa những lời đầy cảm xúc này: “Ép-ra-im có phải là đứa con Ta yêu dấu, một đứa con Ta rất mực mến yêu? Vì mỗi lần nhắc tới nó, Ta lại thấy nhớ thương, nên lòng Ta bồi hồi thổn thức, Ta thương nó, thương nó rất nhiều” (Gr 31: 20).

Chúng ta lưu ý rằng để diễn tả tấm lòng của Đức Giêsu, các thánh ký sẽ lấy lại cùng hình ảnh khi sử dụng một động từ Hy-lạp: “chạnh lòng thương” có cùng ngữ căn: “lòng dạ”, có nghĩa “mối cảm xúc dâng lên tận tâm can”. Đức Giêsu chạnh lòng thương trước nỗi đau của người đàn bà góa khóc thương đứa con trai một của mình, trước nỗi khốn khổ của đám đông dân chúng hay nỗi khốn cùng của những người bệnh hoạn tật nguyền.

Và nếu Đức Giêsu về phương diện thể lý mặc lấy nam tính, phải chăng Ngài đã không đảm nhận theo một cách nào đó nét đặc trưng của nữ tính khi sinh hạ một nhân loại mới trong đau đớn sao?: “Khi sinh con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình; nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong thế gian” (Ga 16: 21).

BÀI ĐỌC II (1Cr 4, 1-5)

Với bản văn này, chúng ta hoàn tất phần thứ nhất thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô. Thánh nhân cố hàn gắn lại những bất đồng chia rẽ giữa những tín hữu Cô-rin-tô; thánh nhân lại càng nhiệt tâm hơn vì Giáo Đoàn này là công trình của ngài.

1. Người quản lý trung thành của các mầu nhiệm Thiên Chúa:

Vả lại, những chia rẽ này đụng chạm trực tiếp đến thánh nhân, bởi vì có “một phe nhóm thuộc về ông Phao-lô”. Tuy nhiên, thánh Phao-lô rất nhạy bén. Thánh nhân đã bị thương tổn, không ở nơi tình cảm riêng tư của ngài, nhưng ở nơi lý tưởng tông đồ của ngài. Cảm thấy mình bị bình phẩm hay bị nghi ngờ theo những tiêu chuẩn phàm nhân (có thể về thể chất của ngài, lập luận của ngài, ngôn từ của ngài, dáng điệu cử chỉ của ngài, vân vân), thế nên chỉ sứ điệp phải truyền đạt mới là điều quan trọng. Đây thật sự là một sự thử thách đối với vị sứ đồ hiến dâng bản thân mình cho sứ mạng của mình. Từ đó, thánh nhân thốt lên: “Vậy chớ gì thiên hạ coi chúng tôi như những đầy tớ của Đức Ki-tô, những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa”.

2. Phải trả lẽ với lương tâm của mình:

Thánh nhân không là một siêu sao, nhưng chỉ là người quản lý trung thành của các mầu nhiệm Thiên Chúa. Đó là tiêu chuẩn duy nhất theo đó vị sứ đồ chịu quyền xét xử.

Thánh nhân phải trả lẽ với ai? Không với những Ki-tô hữu Cô-rin-tô. Những người này không có thẩm quyền phán xét lòng trung thành của thánh nhân. Cũng không tòa đời (chắc chắn thánh nhân nghĩ đến việc ngài bị điệu ra trước quan tổng trấn Rô-ma là Gallion ở Cô-rin-tô).

Phải chăng thánh nhân phải trả lẽ cho lương tâm của mình? Vâng, tất nhiên. Thánh Phao-lô diễn đạt ngay liền một cách tinh tế: “tôi chẳng thấy lương tâm áy náy điều gì”. Người duy nhất có thẩm quyền xét xử thánh nhân là chính Thiên Chúa, chứ không một ai khác.

Chúng ta thấy thánh Phao-lô nâng cao dần dần cuộc tranh luận như thế nào. Thánh nhân đưa ra một định nghĩa rất đẹp về sứ vụ tông đồ và dẫn đưa lập luận của mình cho đến khi gợi lên cuộc phán xét chung cuộc, ở đó những ý định ẩn kín trong thâm tâm con người được phơi bày ra và ở đó những khen thưởng xứng về những công việc của mình.

TIN MỪNG (Mt 6,24-34)

Bản văn này còn thuộc “Bài Giảng Trên Núi”, ở đó thánh Mát-thêu đã quy tụ những lời dạy khác nhau của Chúa Ki-tô. Cung giọng của đoạn văn này gần với văn chương minh triết của Cựu Ước ở đó những châm ngôn, thành ngữ, dụ ngôn quen thuộc, hình ảnh thi vị, được tô điểm với những lời khuyên xử thế thực tiển. Nhưng bên kia sự giống nhau này xuất hiện một ghi nhận mới, cao vời: bài diễn từ mặc khải về Chúa Cha và sự ân cần chăm lo không ngừng của Ngài. Đức Giêsu vừa mới dạy cho các môn đệ Kinh Lạy Cha; Ngài vừa mới đòi hỏi các ông phải có đức ái không giới hạn theo hình ảnh đức ái của Cha trên trời. Bây giờ Ngài tiếp tục khi gợi lên đại gia đình tình yêu: tình phụ tử của Đấng đã sáng tạo hoa đồng cỏ nội, chim trời và con người. Đây là một trong những trang Tin Mừng rất đẹp về tấm lòng nhân ái của Thiên Chúa.

1. Thiên Chúa và tiền của:

Trước tiên Chúa Giêsu nhắc lại sự đòi hỏi mà Ngài đã phát biểu từ mối phúc đầu tiên: tinh thần siêu thoát khỏi những của cải trần thế. Ngài dựa trên câu châm ngôn thịnh hành: “Không ai có thể làm tôi hai chủ” mà Ngài áp dụng đặc biệt bằng cách đối lập Thiên Chúa với tiền của. Bản văn Hy-lạp đã gìn giữ từ A-ram “mammon”, nguyên nghĩa là của cải vật chất hay tài sản. Chắc chắn Chúa Giêsu đã muốn nhân cách hóa của cải vật chất để chỉ nó như một ông chủ.

Việc tôn thờ tiền của không xứng hợp với sự phụng sự Thiên Chúa. Những người quá lo lắng trích trử của cải tiền của tức tự mình làm nô lệ cho của cải và do đó không thể được tự do để thờ phượng Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã nói trước đó: “Kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó”. Hơn nữa, Thiên Chúa muốn một tình yêu trọn vẹn, không phân chia đối với Ngài. Việc từ chối của cải là điều kiện tiên quyết cho trọn một đời dâng hiến mà Ngài đòi hỏi.

2. Đừng lo lắng thái quá:

Chúa Giêsu không đòi hỏi phải từ bỏ những của cải thiết yếu, nhưng đừng quá cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn (6: 25-30), cho thân thể: lấy gì mà mặc (6: 31-33) và về ngày mai (6: 34). Những môn đệ Ngài sẽ có kinh nghiệm về lời khuyên này. Ở Tiệc Ly, Chúa Giêsu sẽ nhắc lại cho họ điều đó: “Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?”. Các ông đáp: “Thưa không” (Lc 22: 35).

Cũng như cô Mác-ta tất bật lo toan nhiều việc để đón tiếp Ngài cho thật chu đáo trong khi cô em Ma-ri-a ngồi dưới chân Chúa lắng nghe Lời Ngài. Chúa Giêsu đánh giá rằng cô Ma-ri-a chọn phần tốt nhất. Chúa Giêsu thiết lập thứ bậc về hai cách thế bận lòng. Vào thời thiên sai, nỗi bận lòng ưu tiên phải là của cải tinh thần.

3. Tin tưởng vào Chúa quan phòng:

Việc Đấng Tạo Hóa ân cần chăm lo cho các loài thọ tạo của mình là một chủ đề Kinh Thánh, được khẳng định trong nhiều bản văn. Các Thánh Vịnh ca ngợi: “Hết mọi loài ngửa trông lên Chúa đợi chờ Ngài đến bữa ăn” (Tv 104, 27, 145, 15; 136, 25; 147, 9).

Giữa những thọ tạo khiêm hạ nhất, Chúa Giêsu đưa ra hai ví dụ: chim trời và hoa đồng cỏ nội để mời gọi con người phải sống trong sự tin tưởng và phó thác trọn vẹn vào Người. Người đã ban cho chim trời có thức ăn hằng ngày, mặc dù chúng không nhọc công gieo vãi, không gặt hái và không trích trử lúa thóc vào kho lẫm. Người cũng sẵn sàng trang điểm hoa đồng cỏ nội nay còn mai mất một tấm áo sắc màu tuyệt vời hơn cả một cẩm bào của vua Sa-lô-mon.

“Hoa huệ”, từ ngữ chỉ không chỉ hoa huệ nhưng nhiều loại hoa đồng cỏ nội. Vào mùa xuân, miền Ga-li-lê nở rộ những hoa đồng cỏ nội này. “Nay còn, mai đã quăng vào lò”. Chúa Giêsu biết điểm xuyết những dụ ngôn của Ngài bằng chi tiết cụ thể: hoa đồng cỏ nội, bị héo khô, được các nông dân Ga-li-lê thu lượm lại, không chỉ dùng làm cỏ khô để nuôi gia súc, nhưng còn làm chất đốt để nướng bánh.

Từ những tạo vật hèn mọn như chim trời hay hoa đồng cỏ nội, Chúa Giêsu đề cập đến phẩm chất cao cả của con người. Con người là một tạo vật cao vời khôn sánh đối với chim trời hay hoa đồng cỏ nội. Ý thức về sự cao cả của mình phải cho giúp người Ki-tô hữu có một thái độ hoàn toàn khác với thái độ lương dân. Người môn đệ của Chúa Ki-tô phải tín thác trọn vẹn vào ơn quan phòng của Thiên Chúa, Cha chúng ta ở trên trời.

4. Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa:

“Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người”. Từ “công chính” phải được hiểu theo nghĩa kinh thánh: “sự thánh thiện”. Tìm kiếm sự công chính, tức là nổ lực nên thánh và thực thi thánh ý Thiên Chúa.

“Còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”, tức là những điều Ngài vừa mới đề cập đến: thức ăn, áo mặc, đây là những căn nguyên lo lắng đối với dân ngoại, nhưng không đối với con cái Thiên Chúa. Đức Giêsu không hứa với “những người công chính” là sẽ ban cho họ dư đầy của cải trần thế, nhưng đơn giản là đảm bảo cho họ nhu cầu cần thiết hằng ngày, như trong lời kinh mà Ngài vừa mới dạy: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. “Anh em đừng lo lắng về ngày mai”. Đừng bận lòng này mai là một thái độ tin tưởng và một sự biểu lộ tinh thần nghèo khó: “Chúa là hạnh phúc và tình yêu đời con, vì ngoài Chúa ra con tìm đâu thấy tình yêu và hạnh phúc đời đời”.


9. Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu

Suy niệm:

Chế độ nô lệ tưởng như đã không còn trên thế giới.

Nhưng ngày nay người ta vẫn nói đến những hình thức nô lệ mới.

Nước nghèo mất chủ quyền, chịu nô lệ cho nước giàu,

các phụ nữ trở nên nạn nhân của nô lệ tình dục,

trẻ em nô lệ cho chơi game, thanh niên nô lệ cho ma túy.

Xem ra khó tránh được chuyện bị làm nô lệ,

giữa một thế giới đề cao tự do và giải phóng.

Khi không muốn làm nô lệ cho ai,

con người lại trở nên nô lệ cho cái tôi ích kỷ.

Khi không chấp nhận lệ thuộc Đấng Tạo Hóa cao vời,

con người lại trở nên nô lệ cho các thụ tạo do mình tạo ra.

Đức Giêsu đặt chúng ta trước một chọn lựa.

“Anh em không thể đồng thời làm tôi Thiên Chúa và Tiền Của được.”

Nếu có hai chủ thì thế nào cũng yêu mến người này hơn người kia.

Giữa Thiên Chúa và Tiền Của, tôi sẽ gắn bó với ai hơn, tôi sẽ chọn ai?

Tôi không thể giả vờ thỏa hiệp để chọn cả hai, để được cả hai.

Thần Tài hứa hẹn cho tôi sự an toàn và hạnh phúc giả tạo,

còn Thiên Chúa hứa cho tôi hạnh phúc đích thực, vững bền.

Chỉ khi đặt Thiên Chúa lên trên mọi sự, tôi mới thật sự tự do.

Có sáu động từ lo trong bài Tin Mừng trên đây.

Đức Giêsu nhiều lần khuyên các môn đệ đừng lo (cc. 25. 31. 34).

Nhưng làm người ai lại không lo về ngày mai, trừ phi là trẻ thơ?

Trên thế giới bao người vẫn phải vật vã từng ngày với cơm ăn, nước uống?

Con người có thể sống vô tư như chim trời không

khi chim trời ngày nay cũng bị đe dọa không nơi trú ẩn?

Chúng ta cần hiểu cho đúng chữ lo của Đức Giêsu.

Ngài không dạy chúng ta sống vô trách nhiệm, phó mặc hay lười biếng.

Cái lo mà ta nên tránh là cái lo âu, lo sợ của người kém lòng tin (c. 30),

không tin rằng Thiên Chúa quý con người hơn mọi thụ tạo khác.

hơn giống chim trời, hơn hoa ngoài đồng nội.

Lo âu đó chi phối quá khiến người ta cứ loay hoay, bối rối tự hỏi:

ta sẽ ăn gì, uống gì hay mặc gì đây? (c. 31).

Lo âu này khiến người ta bất an và sợ hãi, vì là lo âu một mình,

quên rằng mình có Người Cha biết rõ những nhu cầu thiết yếu (c. 32),

và sẵn sàng lo cho mình những điều cần dùng (c. 33).

Lo âu này cũng khiến người ta tìm kiếm thỏa mãn nhu cầu của mình

hơn là ưu tiên tìm kiếm xây dựng Nước Thiên Chúa (c. 33).

Kitô hữu không phải là người ngây thơ, sống không lo ngày mai.

Kitô hữu là người biết lo liệu, lo toan cho cuộc sống của họ.

Nhưng họ không căng thẳng vì phải bơ vơ lo một mình.

Họ lo như một người con trưởng thành, cùng lo với Thiên Chúa Cha.

Họ lo một cách thư thái nhẹ nhàng như loài chim buổi sớm đi tìm thức ăn.

Kitô hữu nắm được chìa khóa của hạnh phúc, của no đủ và bình an.

Đó là cứ tìm kiếm Thiên Chúa trước tiên, mọi sự khác sẽ được ban dư dật.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,

xin cho con luôn vui tươi.

dù có phải lo âu và thống khổ,

xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình;

nhưng biết nghĩ đến những người quanh con,

những người - cũng như con -

đang cần một người bạn.

Nếu như con nên yếu đuối,

thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn,

thông cảm và nhân từ hơn.

Nếu bàn tay con run rẩy,

thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.

Khi lâm tử,

xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật

như một lời kinh.

Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác,

như một lời xin vâng cuối cùng.

Và con về nhà Chúa,

để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.


10. Thiên Chúa quan phòng – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Anh em đừng lo lắng về ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó (Mt 6,34)

Suy niệm:

Phân tích

Bài Tin Mừng này có hai ý lớn:

1. Không ai có thể làm tôi hai chủ. Vậy phải chọn làm tôi Thiên Chúa hay làm tôi tiền của.

2. Đừng quá lo lắng về những nhu cầu của cuộc sống thể xác: của ăn, áo mặc, tuổi thọ; vì đã có Chúa lo cho ta những thứ đó. Điều cần lo trước hết là tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.

Suy gẫm

1. Trong câu Chúa Giêsu cảnh cáo về việc làm tôi tiền của, chữ “Tiền Của” được viết hoa, ngụ ý đó là một thứ tà thần. Thật vậy, tiền của có sức ám người ta tất mạnh, và có sức phá hoại mọi thứ đạo đức. Đừng bao giờ coi thường nguy hiểm của nó.

2. Một ông già trúng số độc đắc 100 triệu, ông bị bệnh tim, gia đình lo sợ tin vui sẽ giết mất ông. Vì thế họ đến gặp một mục sư, xin ngài đến thăm dò và hỏi xem ông cụ sẽ làm gì nếu có 100 triệu. Ông nói: “Tôi sẽ cho ngài và cho nhà thờ một nửa” mục sư té xỉu.

3. Sở dĩ con người lo lắng thái quá và từ đó không còn được hạnh phúc trong cuộc sống, là vì con người không tin ở sự hiện diện và quan phòng của Thiên Chúa. Chim trời không gieo vãi mà vẫn có ăn, hoa cỏ đồng nội không canh cửi mà vẫn xinh đẹp rực rỡ. Tin ở tình yêu quan phòng của Thiên Chúa có nghĩa là đón nhận từng giây phút hiện tại sống sung mãn từng khoảnh khắc cuộc sống. Tin ở tình yêu quan phòng của Thiên Chúa cũng có nghĩa là chấp nhận các khuyết điểm của mình, khoan dung đối với những giới hạn của người khác, và nhìn mỗi thất bại như một cơ may mới.

4. “Anh em đừng lo lắng về ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó” (Mt 6,34).

Cuộc sống hiện tại với bao nhiêu mới mẻ, hấp dẫn khiến mình phải chạy đua với thời gian, với model của thời đại và ước muốn hoàn thiện bản thân. Mà muốn thành công trong một lĩnh vực nào đó, là cả một quá trình. Vậy mà mình muốn đạt được ngay. Thế là cứ lo nghĩ, dự định với kế hoạch mà không đủ can đảm thực hiện nó trong giây phút hiện tại và như thế ngày nào cũng bận tâm lo nghĩ về tương lai chỉ thêm chán nản.

Cuộc sống luôn đòi hỏi mỗi người chúng ta ở việc học, cách sống, sự an toàn, sự chia sẻ, sự cảm thông, khả năng yêu thương đối với tha nhân. Tại sao mình không chịu bắt tay vào những công việc đó ngay trong những giây phút này? Như thế có tốt hơn chăng hay cứ hoài lo âu nghĩ ngợi!

Lạy Chúa, mải loay hoay với những tính toán cho tương lai mà con quên mất mình đang sống ở đâu và phải làm gì. Xin Chúa cho con can đảm sống tốt giây phút hiện tại với Chúa, với anh em và chính bản thân con.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin chọn Chúa là gia nghiệp đời con. Vì chỉ nơi Chúa mà chúng con mới có sự sống đời đời. Xin Mình Thánh Chúa nâng đỡ những yếu đuối, nhẹ dạ nơi bản tính loài người chúng con. Xin giúp chúng con vượt thắng những cạm bẫy của thế gian để hồn xác chúng con mãi mãi thuộc trọn về Chúa.

Nhưng Chúa ơi! Ở đời người ta cần công danh. Ở đời người ta chuộng sự giàu có. Chúng con cũng nhiều lần chạy theo những danh lợi thú trần gian. Chúng con đã để tâm tìm kiếm của phù hoa mà quên đi hạnh phúc thiên đàng. Chúng con tin Chúa nhưng lại chưa thờ Chúa trên hết mọi sự. Chúng con chưa thực sự phó thác đời mình cho Chúa. Chúng con còn lắm bon chen để tìm kiếm danh lợi thú trần gian. Chúng con thích tích góp của cải hơn là tích đức đời sau. Chúng con lao tâm khổ trí vì của ăn mau hư nát hơn là giá trị vĩnh cửu Nước Trời.

Lạy Chúa Giêsu mến yêu, xin giúp chúng con biết yêu mến Chúa hơn mọi sự trần gian. Xin loại trừ nơi chúng con những quyến luyến của đam mê tội lỗi, lầm lạc. Xin cho chúng con luôn được trung thành phụng sự Chúa hết cuộc đời. Amen


11. Tiền và Nước Trời

(Tổng hợp từ R. Veritas)

Có người đã luận bàn về đồng tiền như sau:

Tiền có thể:

- Mua được cao lương mỹ vị, nhưng không mua được sự ngon miệng

- Mua được thuốc thang đắt giá, nhưng không mua được sức khỏe.

- Mua được chăn êm nệm ấm, nhưng không mua được giấc ngủ ngon lành.

- Mua được nhà cao cửa rộng, nhưng không mua được mái ấm gia đình.

- Mua được trò chơi giải trí, nhưng không mua được sự bình an thanh thản của tâm hồn.

- Mua được sách vở tài liệu, nhưng không mua được sự thông minh, kiến thức.

- Mua được bạn bè, nhưng không mua được tình nghĩa.

- Mua được trái tim, nhưng không mua được tình yêu.

- Mua được thân xác, nhưng không mua được tâm hồn.

- Mua được đời này, nhưng không mua được đời sau.

- Mua được con người, nhưng không mua được Thiên Chúa

- Mua được visa để đi khắp nơi trên thế giới, nhưng không mua được hộ chiếu để vào Nước Trời…

***

Bạn thân mến! Lời Chúa trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng nhắc đến tiền của: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Mt.6:24)

Đồng tiền là vật có máu “lạnh”. Từ xa xưa ông cha ta đã nói: “Lạnh như tiền!” Tiền còn là bạc. Bạc không chỉ là một loại quí kim, mà còn có nghĩa là bạc bẽo, bạc tình, bạc nghĩa. Vì tiền mà mất cha mẹ, mất vợ chồng, mất anh em bạn bè...

Tiền bạc không ưa thích con người, nhưng con người ưa thích tiền bạc. Dù tiền rách, tiền bẩn, tiền cũ… người ta vẫn dành cho nó một cảm tình đặc biệt. Có ai chê tiền đâu! Từ người già cho tới em bé, ai ai cũng đều thích tiền.

Chúa Giêsu không bài bác tiền của, không phê phán sự giàu sang, cũng không bác bỏ người giàu. Ngài chỉ nhắc nhở về thái độ phải có đối với tiền của và cảnh cáo những người giàu có trong việc sử dụng đồng tiền.

Tiền của tự nó không xấu. Xấu hay tốt là tùy ở nhận thức, thái độ và cách sử dụng của con người. Chúa Giêsu lên án sự ham mê tiền của, đặt tiền của cao hơn Chúa, coi tiền của là mục đích của cuộc sống, đến nỗi dành hết sức lực, thời gian, trí tuệ để chiếm hữu thật nhiều tiền.

Tiền của cần thiết cho cuộc sống. Thế nhưng nó cũng là nguyên nhân cho biết bao băng hoại, tráo trở trong xã hội, đổ vỡ trong gia đình, hư đốn trong bản thân. Khi con người đề cao và bám víu vào tiền của, coi tiền của là vạn năng, là cùng đích của cuộc sống …thì con người sẽ trở thành nô lệ cho tiền của.

Tiền của có thể trở thành phương tiện giúp ta đạt tới đích điểm là Nước Trời, nhưng cũng có nguy cơ đẩy ta xa Chúa, đi tìm kiếm những sự phụ thuộc chóng qua của thế gian. Do đó, điều quan trọng là phải biết sử dụng tiền của như phương tiện để tìm kiếm Nước Trời. “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ khác, Người sẽ thêm cho” (Mt.6:33)

***

Tâm sự của con chim Sẻ:

Bạn thân mến!

Tôi chỉ là con Sẻ nhỏ. Một con chim thật tầm thường. Đời tôi cũng chẳng có giá trị gì nhiều, nhưng Thiên Chúa đã chăm sóc tôi…

Tôi không có kho lẫm, tôi không bao giờ gieo hạt hay gặt hái, nhưng Thiên Chúa đã ban cho tôi phần của một con chim sẻ, chỉ đủ dùng và không có được một hạt dư…

Tôi biết có nhiều con chim sẻ ở khắp nơi, nhưng khi một đứa trong chúng tôi bị rơi xuống đất, Cha trên trời cũng biết rõ điều ấy...

Dù nhỏ bé, nhưng tôi không bao giờ bị quên lãng – dù yếu đuối, nhưng tôi không bao giờ sợ hãi…Vì có Cha trên trời luôn nâng đỡ chở che …

Tôi bay lượn trong những khu rừng rậm rạp, hay nhẹ nhàng trên những khóm hoa – tôi không cần bản đồ hay la bàn, nhưng không bao giờ tôi lạc lối…

Lời Chúa hôm nay cất tiếng mời gọi: “Hãy nhìn xem chim trời…Cha anh em ở trên trời vẫn lo cho chúng! Anh em không đáng giá hơn các con chim ấy sao?... (Mt.6:26)

Vì thế xin đừng lo lắng! Nhưng hãy đặt tất cả đời ta trong vòng tay yêu thương quan phòng của Cha trên trời, Bạn nhé!


12. Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Thể Hiện

“Hãy tìm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người”

Trong hai Chúa Nhật trước, các bài Tin Mừng nói về cách hành xử của Kitô hữu đối với những người thân cận. Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 6,24-34) dạy chúng ta về mối tương quan đối với những giá trị và thực tại vật chất trần gian.

1. “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (c.24)

Trước hết, bài Tin Mừng bắt đầu bằng một giáo huấn quan trọng của Chúa Giêsu: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (c.24).

Làm tôi (douleuein) là phục vụ với một lòng trung thành tuyệt đối, chấp nhận bị chủ sai khiến và quyết định thế nào mặc lòng. Người nô lệ không có quyền gì trên cuộc đời mình. Là vật sở hữu của chủ, anh ta phải chịu chủ sai khiến và phải tuyệt đối tùng phục theo những quyết định của chủ. Vì thế, không ai có thể làm tôi hai chủ, nhất là khi hai chủ ấy hoàn toàn trái ngược nhau và cả hai đều là những người rất đòi hỏi.

Nhưng sự “làm tôi” mà Đức Giêsu nói đến ở đây còn đi xa hơn cách hiểu thông thường rất nhiều. Khi đưa ra hai cặp đối lập yêu / ghét và gắn bó / khinh dể, Người muốn cho thấy sự “làm tôi” ở đây phải là sự dấn thân phục vụ hết mình, trọn vẹn, chân thành, với tất cả lòng yêu mến. Theo nghĩa này, người ta càng không thể làm tôi hai chủ được. “Vì anh ta hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ”.

Cuối câu 24, Đức Giêsu nêu rõ danh tánh hai ông chủ: Thiên Chúa và Tiền Của. Người khẳng định một cách rõ ràng và mạnh mẽ: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được”. Hạn từ “Tiền Của” ở đây có thể được hiểu ở nhiều cấp độ khác nhau. Một số người hiểu đó là tiền bạc theo nghĩa thông thường. Một số khác hiểu đó là những tài sản vật chất khác nhau mà người ta kiếm chác được, nhất là bằng những hoạt động bất chính. Nhiều người hiểu (một cách hữu lý) rằng “Tiền Của” ở đây là tất cả những gì người ta tìm kiếm được và sở hữu được, ngay cả quyền lực, công danh, sự nghiệp, tài năng…, nói tóm lại là tất cả những giá trị và thực tại trần thế, không loại trừ đó là những thực tại tốt lành. Tất cả những thứ đó đều có thể được người ta sùng bái quá đáng, và đều có thể trở thành đối thủ cạnh tranh không khoan nhượng với Thiên Chúa trong tâm hồn và cuộc sống của người ta.

Chúa Giêsu không lên án “Tiền Của”, nhưng Người không chấp nhận những ai để cho thói tôn sùng “Tiền Của” làm chủ mình. Người nặng lời phê phán những ai yêu mến và gắn bó với những thực tại trần gian mà họ làm ra và sở hữu. Vấn đề không phải là không có “Tiền Của”, mà là không được ưu tiên nó như là thực tại quan trọng nhất và có sức chi phối khao khát, suy nghĩ, chọn lựa, quyết định và hành xử của chúng ta. Thiên Chúa phải chiếm vị trí số một, và các đồ đệ của Đức Giêsu phải không được từ nan bất cứ điều gì Thiên Chúa đòi hỏi. Họ phải làm tôi Thiên Chúa trong tình yêu và trong sự gắn bó sâu xa với Ngài. Chính trong thái độ tâm linh căn bản đó, người đồ đệ sẽ có một cách hành xử đúng đắn đối với những thực tại và giá trị trần thế, ngay cả những thực tại và giá trị cốt thiết để hiện hữu và sống còn, như của ăn và áo mặc chẳng hạn.

2. Đừng lo lắng khi phải đối diện với những vấn đề của cuộc sống (cc.25-32)

Những của cải và giá trị trần gian có thể chiếm trọn trái tim, chi phối hành động và biến thành một thứ thước đo giá trị của con người. Con người bị các thực tại phàm trần tác động và điều kiện hoá, vì ai cũng phải đối diện với những nhu cầu rất căn bản của cuộc sống như cái ăn, cái mặc… Các thực tại vật chất là rất cần thiết để con người có thể sống được: chúng ta không thể chỉ sống bằng suy tưởng hay bằng ý chí và không cần bất cứ thứ gì khác. Để sống, người ta buộc phải ăn, phải uống, phải mặc; và chính trong sự tuỳ thuộc vào các thực tại vật chất như thế mà mối tương quan của người ta với của cải trần gian được thực hiện. Không ai có thể tránh né được mối tương quan này. Vấn đề là chúng ta phải sống sự tuỳ thuộc đó như thế nào.

Chúa Giêsu dạy: " Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó” (cc.25-32).

Với một loạt những quan sát và suy tư, Đức Giêsu nhắc chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa biết rất rõ chúng ta và Người luôn sẵn sàng bảo đảm cho cuộc sống của chúng ta. Người đã ban cho chúng ta món quà lớn lao hơn tất cả: thân thể và mạng sống, lẽ nào Người lại chẳng sẵn sàng ban cho chúng ta những món quà nhỏ hơn, tức là những phương tiện giúp chúng ta gìn giữ quà tặng lớn lao kia? Chim trời vẫn tìm được của ăn, cho dù không gieo không gặt. Đoá huệ ngoài đồng vẫn được trang điểm diễm lệ, cho dù không làm lụng canh cửi. Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá, luôn lo liệu mọi sự cho chúng. Há Người lại chẳng làm như thế cho con người, vốn là những con cái mà Người quý hơn tất cả và hằng âu yếm lấy tình phụ tử mà chăm nom gìn giữ? Và cuối cùng là một suy tư đơn giản: Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không? (c.27).

Chúng ta được mời gọi đón nhận những thực tại căn bản, ví dụ như độ dài của cuộc sống trần gian của mỗi người, như Thiên Chúa đã ấn định. Nhưng Đức Giêsu không có ý nói rằng chúng ta đừng làm lụng canh cửi, đừng gieo gặt trồng cấy, đừng để ý lưu tâm hay đừng xây dựng những dự phóng tương lai… Người muốn nói rằng tất cả những điều đó phải được thực hiện nhưng không phải là với một sự lo lắng bận tâm thái quá và mù quáng, mà là với lòng tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha chúng ta. Thiên Chúa đã ban cho con người bàn tay và khối óc, tức là Người đã lo liệu trước để chúng ta có thể xây dựng cuộc sống cho phù hợp với phẩm giá cao cả của mình.

Đức Giêsu biết rõ sự vận hành bình thường của cuộc đời. Người không phủ nhận rằng đôi khi chim trời và con người vẫn phải chết vì đói. Nhưng ngay cả trong những trường hợp cực đoan đó, sự lo lắng thái quá cũng không hề giúp chúng ta tiến bước bình an và chắc chắn trong cuộc sống trần gian này. Trái lại, trong những trường hợp cực đoan bi đát đó, chúng ta càng có lý do để trông cậy và hy vọng nơi Thiên Chúa, không chỉ hy vọng về những thực tại trần gian mà thôi, mà nhất là hy vọng về những thực tại Nước Trời, là nơi duy nhất có cuộc sống viên mãn thật sự.

Sự “không lo lắng” của chúng ta, như vậy, theo lời của Đức Giêsu, không đặt cơ sở trên một sự lạc quan ngây thơ hay trên khả năng làm chủ cuộc sống của chúng ta (khả năng ấy quá bé nhỏ). Sự “không lo lắng” đó được đặt cơ sở trên sự thực vững chắc, rằng Thiên Chúa quyền năng và thông biết mọi sự, rằng Thiên Chúa luôn luôn nhân lành yêu thương ta, rằng Thiên Chúa luôn luôn trung thành với lời sáng tạo của Người.

3. Chọn lựa căn bản của cuộc sống: Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người (cc.33-34)

Sau khi đã dạy chúng ta đừng lo lắng, Đức Giêsu nói cho chúng ta biết đâu là thực tại phải chi phối ước muốn của chúng ta, lấp đầy con tim của chúng ta, xác định thước đo giá trị của chúng ta và đòi hỏi những hoạt động của chúng ta. Người nói: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (cc.33-34)

Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người. Đó là những giá trị cao cả nhất và sâu xa nhất; và chúng ta được mời gọi hoàn toàn quy hướng tất cả con người của mình về những thực tại đó. Nước Thiên Chúa là chính Thiên Chúa đang tỏ mình hoàn toàn cho chúng ta trong tư cách là Đức Chúa quyền năng và tràn đầy ân nghĩa, Đấng luôn đón nhận và yêu thương che chở chúng ta trong sự hiệp thông vào sự sống của chính Người. Tất cả lòng tin của chúng ta, tất cả niềm hy vọng của chúng ta và tất cả lòng yêu mến của chúng ta đều phải được quy hướng về Người trong một ý hướng hoàn toàn thuần khiết. Đó là tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Sự công chính của Thiên Chúa là sự công chính đến từ chính Thiên Chúa. Đó là cách hành xử của người công chính, phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa và được Đức Giêsu nói rõ trong bài giảng trên núi. Tất cả nỗ lực của chúng ta và tất cả sức mạnh của chúng ta, đều phải được huy động để thực hiện sự công chính ấy.

Nếu chúng ta trước hết chỉ tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người như thế, thì những điều khác sẽ được ban cho chúng ta như những phương tiện để chúng ta thực hiện chọn lựa căn bản đó của cuộc đời. Ý nghĩa của sự hiện hữu của chúng ta không tuỳ thuộc vào những mối bận tâm về cuộc sống hiện tại này, mà là ở sự hoàn toàn quy chiếu của chúng ta, ngay trong cuộc sống thế tạm hôm nay, vào Thiên Chúa, và ở sự chuẩn bị của chúng ta, nhờ những hành động công chính, cho cuộc hiệp thông viên mãn vĩnh cửu với chính Thiên Chúa.

Đó mới là tương lai đích thật mà chúng ta phải hướng tới, chứ không phải là cái ngày mai trong cuộc đời thế tạm này. Vì thật ra, cái ngày mai thế tạm vẫn sẽ là cái ngày mai vất vả: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (c.34). Nhưng sự vất vả trong ngày mai thế tạm sẽ rất khác nhau. Đó sẽ là sự vất vả nhọc nhằn và cay đắng, nếu chúng ta vất vả vì những lo lắng cho cuộc sống thế tạm và vật chất này. Trái lại, đó sẽ là vất vả phúc lạc và bình an, nếu chúng ta tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, tức là nếu chúng ta hoàn toàn quy hướng về Thiên Chúa và sống theo những mối phúc mà Chúa Giêsu đã công bố trong bài giảng trên núi (5,3-12).

Tất cả chúng ta đều chịu tác động của các thực tại thế tạm. Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta rằng: ngay trong mối tương quan của chúng ta với những thực tại cần thiết cho cuộc sống thế tạm, Thiên Chúa vẫn phải chiếm vị trí mang tính quyết định. Ta được mời gọi đừng để cho những lo toan về các nhu cầu (cho dù là khẩn thiết nhất) của cuộc sống, hoàn toàn chi phối tâm trí chúng ta, đến nỗi chúng ta đánh mất sự tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha chúng ta. Quan trọng hơn tất cả những bận tâm lớn nhỏ của cuộc sống, là lòng tin và niềm xác tín rằng: “Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó” (c.32). Nếu lòng tin tưởng vững chắc vào Thiên Chúa và xác tín mạnh mẽ về sự nhân lành vô biên của Người, làm người bạn đồng hành với những mối bận tâm về cuộc sống vật chất của chúng ta, thì chắc chắn tâm hồn chúng ta sẽ được bình an, và chúng ta sẽ đối diện với cuộc sống (có khi rất khắc nghiệt) này với một sự tự do nội tâm đích thực.

“Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người” (Mt 5,33).

13. Con là con của Chúa

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)

SUY NIỆM

Mở đầu bài Tin Mừng hôm nay, ta nghe Chúa Giêsu cho ta lời một giáo huấn rất dứt khoát: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được.” (Mt.6,24).

LÀM TÔI THIÊN CHÚA

Năm 1989, 1 trận động đất 8,2 độ Richter gần như san bằng Armenia, làm hơn 30.000 người chết trong vòng 4 phút. Trong cơn hỗn loạn, có 1 người đàn ông dặn vợ mình ở nhà cho an toàn, rồi chạy ào đến trường, nơi con trai ông đang học.

Ở đó, ông nhìn thấy 1 đống đổ nát - ngôi trường đã sập hoàn toàn. Ngay lúc đó, người đàn ông nhớ đến lời hứa ông luôn nói với con mình: "Dù thế nào, bố cũng luôn bảo vệ con!". Và ông bật khóc khi nhìn đóng gạch vụn đã từng là trường học. Rồi ông bắt đầu cố định hướng xem lớp của con mình nằm ở vị trí nào. Góc bên phải phía sau của trường học! Ông lao đến và bắt đầu bới đống gạch đá.

Nhiều vị phụ huynh thấy người đàn ông làm như vậy, họ vừa khóc vừa kéo ông ra, kêu lên: "Quá muộn rồi!","Anh không làm được gì đâu", "Về nhà đi" hoặc "Chúng ta phải chờ cứu hộ đến thôi"... Nhưng để đáp lại những lời đó, người đàn ông chỉ nói đúng 1 câu: "Giúp tôi 1 tay!". Và ông vẫn tiếp tục bới đống gạch, cẩn thận quẳng từng viên gạch, từng mảnh tường ra ngoài.

Đội cứu hộ đến và họ cũng cố lôi ông ra khỏi đống đổ nát.

- Chúng tôi sẽ lo việc này, ông về nhà đi!

Nhưng người cha vẫn dọn dẹp từng viên gạch và chỉ đáp:

- Giúp tôi 1 tay đi!

Cảnh sát cũng có mặt. Họ cũng khuyên can người đàn ông:

- Anh đang trong trạng thái không ổn định. Anh có thể gây nguy hiểm cho mình và cho người khác, đề nghị anh về nhà!

Nhưng họ cũng chỉ nghe được 1 câu:

- Giúp tôi 1 tay đi!

Một người rồi nhiều người vào "giúp 1 tay"

Họ đào bới đống gạch suốt 8 tiếng... 12 tiếng... 24 tiếng... 36 tiếng... Và đến tiếng thứ 38, khi kéo 1 tảng bê-tông ra, dường như họ thấy tiếng trẻ con.

- Armand? - Người đàn ông gọi to, giọng nghẹn lại

và ông nghe thấy tiếng trả lời:

- Bố phải không? Con ở đây này! Con đang bảo các bạn đừng lo, vì bố sẽ đến cứu con, và tất cả các bạn nữa! Bố đã hứa bố sẽ luôn bảo vệ con mà...

14 học sinh trong số 38 em ở lớp của Armand được cứu sống hôm đó, vì khi ngôi trường sập xuống, 1 tảng bê-tông to đã chèn vào tạo thành cái "hang" nhỏ và các em bị kẹt. Armand đã bảo các bạn đừng khóc, bởi vì "bố tớ sẽ đến cứu chúng ta!". Các em nhỏ hoảng sợ, đói khát, nhưng đã được cứu sống, bởi vì có 1 người cha đã hứa.

Làm tôi Thiên Chúa là làm con Thiên Chúa:

“Hạnh phúc thật” của con người.

Vì, làm tôi Thiên Chúa, là được Thiên Chúa yêu thương.

“Làm tôi Thiên Chúa” không phải là sống kiếp đời “Tôi mọi”, mà là được Ngài chia sẻ sự sống, và niềm hạnh phúc.

“Làm tôi Thiên Chúa” là sống khiêm nhường để tuân theo thánh ý Chúa, và như thế, là vâng phục Thiên Chúa và được Ngài che chở.

“Làm tôi Thiên Chúa” là được “công tác” vào chương trình cứu độ của Ngài, vì được Ngài nâng lên bậc “làm con Thiên Chúa”. “Lạy Cha chúng con ở trên trời”.

“Làm tôi Thiên Chúa” là bước theo con đường Giêsu và được Người xem là “bạn hữu”.

“Làm tôi Thiên Chúa” là được tất cả vì Thiên Chúa là Alpha và Omega, là hạnh phúc viên mãn.

“Làm tôi Thiên Chúa” chính là “làm con Thiên Chúa”. Và chính vì thế, ta có thể vui sống, vững tin, vì đời ta luôn trong vòng tay yêu thương che chở của Ngài.

“Làm tôi Thiên Chúa” ta được Ngài trao ban những gì có giá trị bền vững, sự vĩnh hằng.

Và như thế, ta có thể tin yêu phó thác vào Thiên Chúa, Cha mình, như đứa bé trong câu chuyện kể trên: “Con ở đây này! Con tin rằng Chúa sẽ cứu con! Chúa đã hứa sẽ luôn bảo vệ con mà!”.

“Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình,

hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau?

Cho dù nó có quên đi nữa,

thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.” (Is.49,15).

LÀM TÔI TIỀN CỦA

Làm tôi tiền của là “đại họa” cho bản thân và cộng đồng nhân loại.

“Làm tôi tiền của” là sống một kiếp đời đày đọa.

“Làm tôi tiền của” là sống “tôi mọi” không ngừng.

“Làm tôi tiền của” là trong tay thần chết, đã trong tay thần chết thì tất nhiên không được bảo vệ.

“Làm tôi tiền của” là sa lầy vào những hành vi đen tối.

“Làm tôi tiền của” là mất phương hướng ngay lành, đi vào thế giới hủy diệt.

“Làm tôi tiền của” là tin vào sự phù phiếm và bám víu vào những giá trị mỏng manh.

“Làm tôi tiền của” là mất tất cả.

“Tiền của” là một đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông chủ xấu! “Ông chủ” xấu đó không ai khác hơn là “ma quỷ”! Tiền của là phương tiện đáng sợ của ma quỷ. Thậm chí, nó chính là ma quỷ!

Thực tế, tiền của đem lại cho con người “cơm no, áo ấm”, “ăn ngon, mặc đẹp”. Nhưng tham vọng con người là “túi tham không đáy”, thường không dừng lại ở mức “lương thực hằng ngày”, nên đi xa hơn, tiến đến hành vi “tom góp”, cưỡng đoạt, tìm cách sở hữu càng nhiều càng tốt, bằng mọi cách, bất chấp đạo đức, phi nhân, phi nghĩa, và tìm cách phá đổ tất cả những cản trở, mà cao điểm, chính loại bỏ lương tâm, chối từ Thiên Chúa.

Đó là sự tiến hóa về miền đất chết của nhân loại. Đó là nền văn minh sự chết. Nếu con người không “thức tỉnh”, con người dần dần biến Trái Đất này thành một hành tinh chết, không phải vì sự cạn kiệt của tài nguyên, mà là sự cạn kiệt những giá trị tinh thần.

Hãy xem sự phá hoại môi trường hiện nay, không hoàn toàn vì nhu cầu con người, thực ra, có sự đóng góp đáng kể của lòng ích kỷ và tham vọng.

Tin Mừng hôm nay không phải là bài học “nghệ thuật sống” về sự an nhàn thanh thản, mà là giáo huấn về “Tình Yêu Thiên Chúa”, để con người tìm thấy đâu là nơi nương tựa, đâu là hạnh phúc thật sự để con người nhắm tới, và đâu là sự mỏng manh vô nghĩa mà con người lầm tưởng là thứ giá trị như lòng mơ ước.

Sự lo lắng sẽ đến khi con người muốn được sở hữu và toàn quyền quyết định trên những gì con người mong muốn theo ý riêng mình, nhưng đáng tiếc thay, con người không có gì để sở hữu và tất nhiên không có quyền gì trên bất cứ thứ gì. Tất cả “là mây là khói”, là “là phù hoa”, là “cát bụi”, là vô nghĩa, nếu con người sống ngoài Thánh ý Thiên Chúa, sống ngoài Tình Yêu Thiên Chúa. “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc.12,20).

Ngược lại, sự bình an sẽ đến khi con người nương tựa vào Thiên Chúa và con người sẽ nhận ra sự giàu có của mình khi biết nhìn lên Thiên Chúa và gọi Ngài hai tiếng: Cha ơi!

Sự giàu có ấy là gia tài bất tận, bất biến, không ai xâm phạm được, và không bao giờ vì nó mà ta đau khổ. Đó là sự giàu có tâm hồn.

Con người chỉ hiểu được giá trị tiền của cùng với danh vọng trần thế, và biết chọn lựa thái độ thế nào đối với chúng, khi con người nhìn vào cuộc đời Chúa Cứu Thế, đặc biệt khi Người bị ma quỷ cám dỗ ở sa mạc.

“Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt.4,4).

“Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Mt.4,7).

“Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”. (Mt.4,10).

“Thờ phượng một mình Người mà thôi”. Đó là con đường của chúng ta. Con đường sống của nhân loại.

Vì thờ phượng, là tâm tình con thảo đối với Cha mình, là Thiên Chúa. Và đó mới là nguồn vui, nguồn hạnh phúc thật sự của đời người. “Chúa là nguồn vui của con” (Tv.43,4).

Lạy Chúa,

Nghe nói phó thác tất cả trong tay Chúa, con đừng lo sợ.

Không khó đâu! Mặc dù con không biết Chúa Kitô đưa con đi đâu,

Ngài dành những gì bất ngờ cho con,

chỉ tin Chúa là Cha của con,

chừng ấy đủ rồi. Amen.

(Đường Hy Vọng. Hồng Y P.X. Nguyễn Văn Thuận).

Truyện áp dụng:

Chờ sung rụng

Xưa có một anh rất lười, không chịu làm gì, ngay cả việc ngủ và ăn mà anh ta cũng không muốn nữa.

Một hôm, anh ta nằm ngửa dưới gốc cây sung, há miệng chờ sung rụng vào, khỏi mất công hái mà ăn.

Xui quá, sung chín rơi rụng đầy trên mặt đất, quanh chỗ anh ta nằm mà chả có trái nào rớt trúng vào miệng anh ta cả.

Có một người đi qua thấy thế, đem lòng thương hại, lấy chân kẹp một trái sung rụng bỏ vào miệng anh ta. Anh chàng lười vừa nhai vừa lụng bụng:

- Rõ cái đồ lười.


14. “Dân ngoại đạo!”.

Chúa Giêsu không thích những kẻ hay lo lắng. Họ làm thương tổn điều mà Ngài sống với Chúa Cha. Làm sao nghĩ rằng có giây phút nào Chúa Cha, Đấng đã tạo dựng vũ trụ vì hạnh phúc của con cái loài người, lại có thể để họ sống trong nghèo túng. “Dân ngoại đạo!”, Chúa Giêsu nói như thế với kẻ nào hay lo lắng. Người Kitô- ngoại đạo biết Chúa nhưng không biết lòng Chúa. “Những người kém tin!”. Chúng ta kém tin khi, để ngăn chận những mối lo, chúng ta chọn việc tin vào tài khoản ngân hàng của chúng ta ở ngân hàng hơn là tin vào Chúa.

- Không sao, tin vào Chúa rất có thể kèm theo sự cẩn thận theo lương tri đơn sơ! Những câu chuyện trong Tin Mừng nói về chim chóc và hoa cỏ này rất đẹp, nhưng có những lúc cạn lương vào cuối tháng, bệnh tật, thất nghiệp, lo âu muốn biết chúng ta có thể trang trải chuyện học hành cho đứa con nhỏ hay không, vết thương ăn sâu trong tâm trí khó xoá nhoà bằng một dịp tĩnh tâm ngắn ngủi. Tại Palestin, vào thời Chúa Giêsu, người ta dễ dàng phó thác vào Chúa hơn hay sao?

- Vấn đề không phải ở đó, Tin Mừng là lời nói dành cho các hoàn cảnh của chúng ta. Chúa Giêsu nói với tôi “Dân ngoại đạo!” hoặc”Con thật Cha trên trời” trong thế giới hiện tại. Chính so với thái độ của tôi trước những khó khăn hiện tại này mà sự kém tin của tôi làm Ngài nổi giận.

Bởi vì đây chính là một vấn đề đức tin. Đây không phải là chuyện chơi mà là tìm biết ai là kẻ giải thoát chúng ta khỏi những lo toan: Chúa hay cuốn sổ chi phiếu của chúng ta? Chúng ta ghét thế nước đôi này, chúng ta muốn giao phó chúng ta cho cả hai. Nhưng Chúa Giêsu nói:”Không ai có thể làm tôi hai chủ”.

Ngài nói điều đó bởi vì Ngài biết sự hấp dẫn của tiền bạc. Và chúng ta cũng biết sự hấp dẫn ấy! Trước tiên chúng ta muốn có tiền bạc để sống một cách liêm khiết, một cách đơn sơ. Chúng ta muốn có tiền bạc để đảm bảo không thiếu thốn. Sau đó chúng ta muốn có tiền bạc để có tiện nghi hơn. Và cuối cùng chính tiền bạc điều khiển cuộc sống của chúng ta, bỏ mặc cuộc sống chìm trong ba mối lo toan kiếm tiền, mua sắm và đảm bảo tương lai. Trong cuộc sống đó, nói với Chúa: “Xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” chỉ còn là một lời kinh máy móc mà thôi.

- Thế thì Chúa Giêsu muốn chúng ta cư xử như những người bất cẩn và vô trách nhiệm hay sao?

- Chúng ta biết rõ rằng cái được thua không phải ở đó. Chúng ta thấy rõ vấn đề mà Chúa Giêsu đặt ra cho chúng ta nhưng chúng ta lại muốn gạt đi: “Bạn có tin rằng bạn có một người Cha trên trời hay không?”

Nếu có, phải dẹp bỏ các lo lắng vừa quấy rầy nhưng rốt cục vừa trấn an bởi vì đây là điều đã biết. Chúng ta e sợ dấn mình sâu hơn trong cái không biết của niềm tin!

Cuối cùng có thể nói: “Lạy Cha, con biết Cha yêu con và con không sợ gì cả”. Đó là chọn sự an bình ở một mức độ rất sâu xa trong con tim của chúng ta. Đây là một sự an bình thường là khá dễ dàng, may thay, nhưng lại có thể đòi buộc tính anh hùng: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” trở thành một hành vi đức tin rất ý thức và là một hành vi tình yêu. “Các ngươi đừng lo lắng cho ngày mai” từ nay là sự khôn ngoan của chúng ta.

Điều mà Chúa Giêsu nói thêm: “Ngày mai, mai sẽ lo” không nói ngược lại ba lần “Các ngươi đừng lo lắng” trước đó, mà tô đậm chúng. Cần phải lo lắng đến công việc, lương bổng, bệnh tật, nhà cửa phải mua, việc hưu dưỡng phải dự kiến. Nhưng sự lo lắng này chỉ tốt nếu nó diễn ra trong niềm tin tưởng vào Chúa. Và dấu hiệu thì rõ ràng: vẫn an bình.

Tìm kiếm Nước trời trước tiên, chính là kiếm tìm Chúa trước tiên, bền bỉ quy hướng về Chúa, chắc chắn rằng với Ngài chúng ta có thể được giải thoát. Những người nào dám tin tưởng như thế thì có được kinh nghiệm kỳ diệu này là con tim có tự do.


15. Người biết rõ các ngươi cần đến các điều ấy.

(Trích trong ‘Giải Nghĩa Lời Chúa’ của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

Đời sống chúng ta hiện nay còn nhiều khó khăn. Vấn đề lương thực là một và có lẽ phải đứng hàng đầu. Chúng ta đầu tắt mặt tối mà vẫn chưa đủ cơm ăn áo mặc. Thế mà Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay lại bảo chúng ta đừng lo lắng! Chúng ta có thể bình thản sống như Lời Chúa dạy không?

Thiết tưởng trước hết phải hiểu đúng ý của Chúa đã! Và cho được như vậy, chúng ta phải nhờ chính Phụng vụ hôm nay giúp đỡ. Không phải vô lý mà trước khi đọc cho chúng ta nghe bài Tin Mừng, Phụng vụ đã công bố mấy lời của sách Isaia. Và chúng ta sẽ thấy những lời thư Phaolô cũng giúp chúng ta thi hành Lời Chúa.

1) Hơn một người mẹ thương con

Chắc chắn những lời sách Isaia hôm nay không phải của nhà tiên tri đã hoạt động trong dân Israel trước khi dân này mất Nước và bị đem đi lưu đày. Sấm ngôn của vị tiên tri này chỉ chiếm 39 chương đầu trong sách Isaia thôi. Những chương 40-55 là của một ngôn sứ khác, mai danh ẩn tích, thường được gọi là Isaia II. Và người ta phải nói đến một Isaia III làm tác giả cho những chương cuối cùng của sách Isaia hiện nay, gồm những chương 56-66.

Bài trích đọc hôm nay nằm trong Isaia II. Tác giả bấy giờ đang sống trong cảnh lưu đày với con cái Israel ở Babylon. Ông được Chúa sai đi loan báo Tin Mừng cứu độ: Người sắp tái tạo và tái sinh Dân Người, tức là phục hồi Israel và trùng tu lại Yêrusalem.

Sứ mạng không dễ đâu. Sion đã kiệt quệ rồi. Nó chỉ còn biết nói: “Yavê đã bỏ tôi, Đức Chúa đã quên tôi”. Và bề ngoài rõ ràng như vậy. Con cái Israel đã tha phương lâu quá rồi. Các tin tức từ Yêrusalem cho biết Đất Nước đã trở thành của ngoại bang; Đền thờ chẳng còn gì nữa; và ở tại nơi lưu đày này, đa số đã xây dựng cơ nghiệp như là vĩnh viễn. Có chăng chỉ còn một thiểu số đạo đức chẳng bao giờ chịu quên Sion và chỉ muốn được trở về để làm lại Dân Chúa. Nhưng đó là thành phần khó nghèo, hy vọng gì làm được công việc đáng kể. Người ta hiểu rằng “quyền năng của Thiên Chúa hay viên thành nơi sức yếu đuối của con người”, tức là Thiên Chúa càng biểu lộ sự cứu độ của Người khi con người tỏ ra bất lực.

Đó chính là trường hợp lúc bấy giờ, khi Thiên Chúa sai Isaia đến với Dân. Thay mặt Người, ông phải công bố cho họ biết Thiên Chúa sắp ra tay cứu Dân. Họ tưởng Người bỏ họ và quên họ rồi sao? Chỉ có họ đã bỏ Người và đường lối của Người, nên họ mới như ngày hôm nay. Họ đã quên Người và huấn giáo của Người nên mới nghi ngờ lòng tốt và quyền năng của Người. Trước kia, Người đã thi thố bao nhiêu kỳ công cho họ, đâu phải vì họ xứng đáng? Chính lúc họ thất vọng, chán nản như đã quên Người thì Người đã đến phục hồi họ. Tất cả quá khứ của lịch sử Israel là như vậy. Và bây giờ cũng sắp như thế. Bởi vì:

“Mẹ nào lại quên con đẻ của mình...?”.

Isaia cho chúng ta một hình ảnh khác về Êzêkiel. Nhà tiên tri này nói đến Thiên Chúa như là một người chồng trung thành. Không những chính Người đã làm ra thân thể kiều diễm, lộng lẫy của Dân Người khi lôi kéo nó ra khỏi cảnh bỏ rơi nhớp nhúa, đói ăn, xấu xí; Người đã đem về tắm rửa, dưỡng nuôi, may mặc và trang sức và dạy cho yêu thương... nhưng rồi nó đã trở thành bạc phục, chạy theo trăng gió để phá hoại thân thể và đời sống. Tuy nhiên Thiên Chúa luôn trung thành và mãi mãi trung thành. Người sẽ tìm cách đưa bạn Người vào sa mạc để khuyên nhủ, để cải hóa... Theo Êzêkiel, tình yêu của Thiên Chúa nói lên sự trung thành không thể nào tưởng tượng được.

Isaia cũng nói đến tình yêu ấy. Nhưng nơi ông nó tha thiết, sâu xa, vô vị lợi và êm ái như lòng mẹ. Và hơn lòng mẹ, bởi vì cho dù “chúng quên được con mình, thì phần Ta, Ta sẽ không bao giờ quên ngươi”.

Thiết tưởng không cần giải thích thêm. Ai có thể phủ nhận tình hiền mẫu? Ai không biết nó chân thật, sâu xa, êm ái và vô vị lợi? Nó đáng tin và đáng tin hơn hết: vì người ta có thể đặt những nghi vấn về tình yêu vợ chồng hay bạn hữu, nhưng chẳng ai dám nghi ngờ gì về tình yêu của người mẹ.

Isaia có thể kéo được lòng con cái Israel trở về với Thiên Chúa nhờ lời sấm chân thật, đơn sơ và cảm động này. Chúng ta hoan hô các bà mẹ. Chúng ta cảm mến lòng các bà mẹ, nhất là các bà mẹ Việt Nam. Chúng ta hãy đi từ đó để hiểu về tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, để hiểu lời Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta về Cha trên trời.

2) Người biết rõ các ngươi cần đến các điều ấy

Thật vậy, Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Người đã sinh ra chúng ta, nên Người không thể bỏ và quên chúng ta được. Loài người lầm lạc sa ngã, thì Người đã sai Con của Người đến để tìm gặp chúng ta, nơi Đức Yêsu Kitô.

Nhưng rất ít kẻ đón nhận Con Một Thiên Chúa giáng sinh làm người. Đại đa số bộ phận nhân loại vẫn dửng dưng với lời loan truyền Tin Mừng Cứu Độ. Vì sao, nếu không phải vì như lời nhận xét của chính Chúa Cứu thế? Là: Không ai có thể làm tôi hai chủ; người ta không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền của được.

Nhưng chúng ta muốn thưa lại với Người: Chúng tôi không tìm tiền của thì chúng tôi ăn gì, mặc gì? Thế là chúng ta mặc nhiên bỏ Thiên Chúa và quên Người đi, để lo có cơm ăn áo mặc. Những yêu cầu này khẩn trương và bức thiết quá!

Tuy nhiên chính vì vậy mà Thiên Chúa sai Con của Người đến. Người mời chúng ta coi chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào lẫm và Cha các ngươi, Đấng ngự trên trời, nuôi nấng chúng. Các ngươi không hơn chúng sao? Chắc chắn chúng ta phải hơn chúng, không phải chỉ vì chúng ta linh ư vạn vật, nhưng nhất là vì Đấng nuôi chim trời lại là Cha của chúng ta. Người phải săn sóc đến chúng ta trước chứ. Lẽ tự nhiên là vậy; sau chúng ta yếu tin vậy?

Còn về áo mặc chúng ta lo làm gì? Kìa xem cỏ đồng nội nay còn mai sẽ quăng vào lò mà Thiên Chúa còn cho mặc đẹp hơn cả Salômon trong vinh hoa đời ông, huống chi là chúng ta, con của Thiên Chúa toàn năng và đầy tình yêu thương?

Lời Chúa dạy rất đơn sơ, chí lý. Nó chân thật rõ ràng. Nhưng sao chúng ta khó tin vậy. Phải chăng chúng ta mới chỉ nhìn thấy khía cạnh tiêu cực trong lời giáo huấn kia mà chưa đi sâu vào phương diện tích cực. Chúng ta mới chỉ nghĩ tới việc “đừng” lo ăn lo mặc. Nhưng Chúa không bảo chúng ta như vậy. Cùng lắm, chúng ta có thể hiểu rằng Người bảo chúng ta “chớ lo đến ngày mai, mai sẽ lo cho mai; khó ngày nào đủ cho ngày ấy”. Tuy nhiên đó cũng chưa phải là giáo huấn tích cực, sâu xa và cốt yếu của Người. Điều Người muốn nói với chúng ta là “hãy tìm kiếm Nước Đức Chúa Trời trước đã, và các sự ấy sẽ được ban thêm cho các ngươi”. Vì Cha trên trời biết rõ chúng ta cần những điều ấy. Người không thể bỏ và quên chúng ta. Chúng ta có lo cũng chẳng có thể thêm cho đời mình một gang nữa. Khởi đầu sự khôn ngoan chân thật là lòng kính sợ Thiên Chúa, là tin vào tình thương của Người, là được sự bình an của Người, rồi nhờ Người hướng dẫn sống trong sự bình an ấy.

Những con người như thế vẫn lo cơm ăn áo mặc; nhưng họ lo trong niềm tin vào tình yêu của Thiên Chúa. Cũng chẳng thể nói được rằng họ “lo”, bởi vì niềm tin luôn giữ họ trong sự bình an. Họ không bị các lo lắng đời này lôi đi đến nỗi chưa hết hôm nay đã lo sang ngày mai, để cuối cùng không còn suy nghĩ, yêu mến gì khác nữa ngoài tiền của và những sự ở đời này. Họ đã bỏ và quên Chúa, vì không thể làm tôi vừa Thiên Chúa vừa tiền của được. Còn kẻ tin Chúa, luôn tìm Nước Đức Chúa Trời và sự công chính của Người trước đã và sẽ tìm thấy mọi điều cần khác ở đó; và sẽ thấy chúng chỉ là những phương tiện sinh sống chứ không phải là đối tượng của đời sống con người. Những người như vậy dù có vất vả vẫn thư thái bình an vì Chúa chẳng bỏ quên họ, hay nói đúng hơn vì họ chẳng bỏ quên Chúa. Họ luôn thấy Chúa là Cha là Mẹ. Họ được an ủi nhất là thấy Chúa yêu thương mình và Người không thể không săn sóc mình hơn chim trời và hoa cỏ ngoài đồng nội.

Nhưng con người không sống chỉ nhờ bánh, mà còn cần vinh dự, cảm thông của xã hội. Chúng ta cũng lo điều này không ít. Lời thư Phaolô hôm nay có lẽ giúp được chúng ta.

3) Đấng xét xử tôi chính là Chúa

Chúng ta ít có khi nào đau đớn như thánh Tông đồ. Người đã vất vả hình thành ra đoàn chiên ở Côrinthô. Chính người đã sinh ra giáo đoàn ấy. Thế mà bây giờ vì có kẻ thọc gậy bánh xe, và cũng vì tâm lý những người Côrinthô bồng bột nhẹ dạ không những ưa mới nới cũ mà còn nông nổi thích chạy theo những sự bay bướm, uy tín của Phaolô đang mất dần. Không thiếu những kẻ xấu miệng phê phán người thế này thế khác. Nói đúng ra, thánh Tông đồ không buồn cho mình. Người chỉ sợ vì thế mà đức tin ở Côrinthô sa sút và lầm lạc.

Người không chủ quan, chỉ thấy những sự tốt ở nơi mình. Người có tự kiểm điểm và kiểm điểm cả những dư luận về mình. Nhưng người không mảy may bận tâm. Không phải những dư luận và đánh giá ấy làm cho người xao xuyến lo lắng. Đấng xét xử tôi, người nói, chính là Chúa. Chỉ có Chúa là quan trọng. Chỉ có tình yêu của Người là cần thiết. Phaolô tìm Nước Đức Chúa Trời trước đã và sự công chính của Người. Chính Người là Cha là Mẹ và hơn cả cha mẹ vô vàn. Cho dù trước lương tâm chúng ta không thấy có gì, nhưng không phải cứ thế là chúng ta được giải án tuyên công. Không phải xã hội và người ta hay lương tâm của mình sẽ trao tặng lời tán thưởng đời đời cho chúng ta, nhưng là Thiên Chúa, Đấng xét xử chúng ta. Cho nên chúng ta đừng vội xét đoán trước khi Chúa đến và mọi dư luận trước đó cũng chỉ là không.

Tuy nhiên không vì vậy mà ai muốn sống thế nào cũng được. Trong xã hội, tất cả chúng ta đều là những người quản lý các mầu nhiệm Thiên Chúa. Và trong các sách Tin Mừng, nhiều lần Người đã nói đến vai trò quản lý này. Người đòi họ phải trung thành với chức vụ, phân phát các ơn của Chúa trong bác ái khiêm tốn, và tỉnh thức cần mẫn chờ đợi chủ về. Tất cả những tư cách ấy, Chúa dạy chúng ta phải đem ra thi hành trong đời sống xã hội. Nếu đã thi hành thì chúng ta cứ yên tâm, không phải xao xuyến vì các dư luận đánh giá đoán xét công việc và thiện ý của chúng ta. Chỉ có điều chúng ta có thật là người quản lý trung thành và khôn ngoan không?

Giờ đây chúng ta hợp dâng thánh lễ. Chẳng có điều gì cần hơn trong lúc này là đến gần bên Chúa để cảm thấy tình Cha, tình Mẹ của Người. Đời sống của chúng ta đang có nhiều khó khăn và lo lắng ư? Kìa, Thiên Chúa đang ban Con Một của Người cho chúng ta; và Con Một của Người đang trao cả Mình Máu Người cho chúng ta. Thiên Chúa còn có thể tiếc gì, không muốn ban cho chúng ta khi hiến ban cho chúng ta mối tình to lớn như thế? Chúng ta hãy có niềm tin, đón nhận mối tình ấy, lãnh nhận chính Thiên Chúa. Chính Người ở trong chúng ta sẽ hướng dẫn chúng ta trong đời sống hàng ngày, để dù lam lũ vất vả, dù gặp những xét đoán bất lợi, chúng ta vẫn không mất niềm tin, vì có Chúa đang ở với chúng ta và giúp chúng ta là các người quản lý tốt ở trong một xã hội.

Lạy Cha, ước gì tâm hồn chúng con được như em bé nằm gọn trong lòng mẹ. Chúng con cũng luôn phó thác cuộc đời chúng con trong tay Cha trên trời. Tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Cha. Tâm hồn chúng con luôn được bình an và hạnh phúc tràn đầy. Xin Đức Giêsu đưa chúng con vào trong tình yêu của Cha. Amen.


16. Thiên Chúa hay thần tài? - Lm Nguyễn Hồng Giáo.

Trong bài Phúc Âm Mt 6, 24-34 mà chúng ta nghe đọc trong Chúa Nhật 8 Thường Niên năm A, và trong dịp Tết Nguyên Đán, Đức Giêsu dùng ba ví dụ rất nên thơ gợi cảm để chỉ cho chúng ta thấy một sự lo lắng thái quá về đời sống vật chất là vô lý nếu như chúng ta còn tin có Thiên Chúa là Cha chúng ta. Ví dụ thứ nhất: chim trời không gieo, không gặt nhưng chúng vẫn được Cha trên trời nuôi sống. Ví dụ thứ hai: cuộc đời của mỗi người chúng ta có một quảng thời gian nhất định sống ở trần gian này, - điều đó chúng ta không thay đổi được, dù có lo lắng cũng chẳng kéo dài đời mình thêm một vài gang tấc! Và cuối cùng: hoa huệ ngoài đồng không làm lụng, không kéo sợi, thế mà dù vua Sa-lo-mon vinh hoa tột bậc cũng không mặc đẹp bằng nó. Kết luận của ba ví dụ là: nếu như Thiên Chúa quan tâm nuôi sống chim trời và ban áo mặc cho hoa đồng cỏ nội, thì lẽ nào Chúa lại không lo lắng cho con người hơn gấp bội sao? Kết thúc bài giảng, Chúa Giêsu tuyên bố: "Vậy đừng quá lo lắng về ngày mai. Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó".

Chúng ta đồng ý rằng lời Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay thật là hấp dẫn. Có gì đáng mong ước hơn là có Cha Trên Trời lo lắng cho ta? Tuy nhiên, càng suy nghĩ và đi sâu vào thực tế, chúng ta càng thấy mọi sự chẳng đơn giản chút nào.

Những lo lắng chính đáng

Con người thời đại ta cũng như mọi thời đại, đều có trăm ngàn nỗi lo, và những nỗi lo chính đáng. Đừng nói gì xa xôi, chỉ nguyên những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống đã làm điên đầu nhiều bậc cha mẹ gia đình: lo sao cho có cái ăn, cái mặc, cho căn nhà ở khỏi giột nát khi tới mùa mưa, cho con cái được học hành, cho có thuốc thang khi bệnh tật, cho giá cả đừng tăng vọt, mùa màng không thất thoát... Những nỗi lo như thế phát xuất từ trách nhiệm của mỗi người, đều chính đáng và đẹp lòng Chúa.

Chúa Giêsu không muốn cho chúng ta lười biếng hoặc sống vô trách nhiệm. Chim trời cũng phải vất vả tìm mồi. Có những thứ chim phải bay thật xa mới tới chỗ có thức ăn. Hoa huệ ngoài đồng cũng có khi phải đâm rễ len lỏi giữa sỏi đá để tìm chất nuôi sống. Đàng khác chính Chúa cũng nói rằng: "Ngày nào có cái khó, cái khổ của ngày đó". Vậy khó nhọc, gian khổ là điều có thực, gắn vào thân phận con người.

Không những Chúa không muốn ta sống lười biếng, vô lo, vô trách nhiệm, mà còn muốn ta phải làm việc để cùng với Người hoàn hiện thế giới này và góp phần vào công cuộc cứu độ thế giới. Ngay lúc vừa mới dựng nên loài người, Thiên Chúa đã ra lệnh cho họ phải canh tác trái đất và làm chủ vạn vật. Trong dụ ngôn về những nén bạc (x. Mt 25, 15-25), Chúa Giêsu đã hỏi mỗi người đã dùng tài năng Chúa ban mà làm lợi cho Người được bao nhiêu, chứ không phải đã chôn giấu nó an toàn như thế nào. Thế thì ta có quyền và có bổn phận phải lo lắng, tính toán, phải có kế hoạch, phải phòng xa. Điều Chúa không chấp nhận là chúng ta lo lắng về đời sống vật chất như thể đó đã là cùng đích của đời sống, là tuyệt đối cho đời mình.

Thiên Chúa hay Thần Tài?

Câu then chốt nhất của bài Phúc Âm hôm nay là: "Tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Chúa và đời sống công chính như Nguời đòi hỏi, còn các thứ kia (nghĩa là của cải vật chất), Người sẽ thêm cho." Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa: đây mới là vấn đề ưu tiên.

Nỗi lo số một của người môn đệ Chúa Giêsu là nước Thiên Chúa. Mọi sự khác cũng cần thiết. Nhưng không được đặt lên trên Nước Thiên Chúa. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đó là trật tự phải tôn trọng. Nhưng đây không phải là vấn đề thời gian sau trước nhưng là vấn đề giá trị mà khi cần phải chọn lựa, ta phải biết đâu là thiết yếu đâu là thứ yếu.

Lời dạy của Chúa Giêsu là hệ trọng. Và nó cũng phù hợp với kinh nghiệm sống của chúng ta. Người ta thường lấy của cải vật chất làm ưu tiên số một và cho rằng của cải giàu sang sẽ giải quyết được mọi vấn đề của xã hội và của con người. Nhưng thực tế luôn luôn chứng minh rằng suy nghĩ và hành động như thế là sai lầm. Xã hội tư bản lấy sự sản xuất của cải hàng hoá dư dật và sự hưởng thụ tự do làm mục tiêu, và bắt mọi sự khác phải phục vụ cho mục tiêu ấy, nên đã rơi vào khủng hoảng về tinh thần, về lý tưởng sống. Và vì mục tiêu ấy, người ta khai thác các tài nguyên thiên nhiên một cách vô độ và ngày nay thiên nhiên quay lại "trả thù" con người, đe dọa cuộc sống trên trái đất. Ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, theo lý thuyết người ta coi kinh tế là yếu tố quyết định mọi sự khác, và tuy vẫn nói kinh tế phải phục vụ con người, nhưng trên thực tế con người và các giá trị đạo đức bị chà đạp trầm trọng... Sau khi hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, những nước khác đã quay sang kinh tế thị trường và cũng đang phát triển theo hướng phương Tây, liệu có tránh nổi những tiêu cực gắn liền vào tư bản chủ nghĩa không? Của cải vật chất là ông chủ không dễ gì khuất phục nổi. Tinh thần thường tỏ ra yếu đuối và không hấp dẫn bằng của cải giàu sang. Ở Việt Nam xã hội chủ nghĩa "thời mở cửa", điều đó cũng đang được chứng minh.

Của cải là cần thiết. Nhưng của cải tự nó không mang lại hạnh phúc cho con người. Nó phải là một phương tiện, một người tôi tớ. Nhưng khốn thay, tên đầy tớ này rất có uy quyền, rất dễ trở thành ông chủ của con người, để con người phục dịch nó với bất cứ giá nào.

"Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đời sống công chính như Người đòi hỏi": Sống theo ưu tiên đó, có nghĩa là chúng ta vẫn phải làm việc, phải vất vả, phải lo lắng và biết tiên liệu, nhưng chúng ta sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì đồng tiền bát gạo, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất.

Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa là Cha yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Người mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.


17. Nguồn sống – Lm Vũ Đình Tường

Cơm ăn, áo mặc là nhu yếu cần thiết cho cuộc sống con người. Vì là nhu yếu không thể thiếu nên nó chi phối cuộc sống đến độ trở thành mối lo, phiền toái chính cho mọi lứa tuổi. Giầu hay nghèo, Đông hay Tây, nơi nào cũng có mối lo riêng liên quan tới vấn đề cơm ăn, áo mặc.

Dân chúng nơi các quốc gia nghèo đói mong sao cho đủ cơm ăn, áo mặc hàng ngày. Ăn bữa sáng, lo bữa chiều. Ăn no, mặc ấm là hạnh phúc rồi. Họ rất thấm Lời Chúa nói: Ngày nào có cái lo của ngày ấy.

Quả thực, gạo chợ, nước sông là vấn đề thực tế mỗi ngày. Ngày nào cũng lo đến miếng cơm, manh áo. Tảng sáng thức giấc mối lo ập đến; trưa đến chưa kiếm đủ cho bữa tối càng lo hơn. Càng về chiều niềm hy vọng nhạt dần như nắng chiều vàng úa quyện chặt gót chân. Mệt, đói lả nhưng vẫn phải lê chân bước về nhà, túi trống, bụng không. Niềm hy vọng cả nhà chợt tắt. Mắt nhìn nhau thông cảm. Lại một tối uống nước muối đi ngủ. Cái đói hành hạ về đêm, đòi ngủ chung giường. Có đêm nó xuất hiện dưới cơn ác mộng nhắc lại đói, khát. Đôi khi may mắn chiêm bao được hưởng bữa tiệc đầy cao lương, mỹ vị. Về y phục cũng thế lo sao cho đủ ấm, đủ áo quần che thân, tránh rét giá đông. Được như thế là hạnh phúc hơn người. Tết đến mong có áo mới, đóng bộ chúc tuổi bà con.

Nơi các quốc gia kỹ nghệ hoá vấn đề cơm ăn, áo mặc cũng đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống. Người ta không hài lòng với ăn no mặc đẹp. Quảng cáo tới tấp dậy người ta đua đòi, hơn thua nhau. Không phải lo đến miếng nên cần phải có tiếng. Chúng đội lốt dưới chiêu bài kiến thức, hiểu biết về xã hội đang sống. Chúng mặc cho lớp áo trưởng giả, giới thượng lưu. Trí thức cao hơn kẻ thất học, thượng lưu thuộc giai cấp cao hơn. Từ lối suy nghĩ đó người ta lao đầu chạy theo quảng cáo. Làm thế nào để ngồi ghế nhà hàng mới khai trương trước người khác. Như thế đủ hãnh diện có kiến thức hơn người. Mặc sao phải đẹp hơn người mới đáng hàng thượng lưu. Để thiên hạ ngồi sau ngắm lưng trần, như thế mới là có vai vế trong xã hội. Chưa hài lòng, phải diện đúng thời trang, theo mùa, vừa trình làng. Như thế mới đúng điệu, đi trước thiên hạ một bước. Đủ ăn, đủ mặc là một nhu cầu. Mong muốn hơn nhu cầu là xa xỉ. Mọi xa xỉ đều phí phạm. Phí phạm đáng chê, trách.

Xa xỉ

Gọi là xa xỉ vì đó không phải là nhu cầu mà là ước muốn. Ước muốn có cũng được mà không có cũng chẳng sao. Tuy nhiên nhiều người muốn là phải được nên lầm lẫn ước muốn và nhu cầu là một. Lầm lẫn chết người này là một đại họa cho nhiều gia đình. Nhà người ta cái gì cũng mới; nhà mình toàn đồ cũ. Đây không phải là so sánh, không chạy theo thiên hạ, không đua đòi mà giải thích là cho có với người ta. Không hơn người ít ra cũng phải bằng người. Để thoả mãn ý tưởng hơn người thì phải làm tăng, dài giờ hơn. Căng thẳng, đè nén sinh ra từ đó. Rõ khổ.

Nhiều trường hợp cho thấy bề ngoài trưng diện sang trọng, sạch sẽ, ngăn nắp nhưng lòng người thì sô bồ, bề bộn, gian tham, mưu kế, rình rập, hằn thù, rối hơn tơ vò. Lo chạy đua để hơn người còn giờ đâu cho đời sống nội tâm. Có chăng thì qua loa, mong cho xong sớm còn lo việc riêng, gia đình, sinh nhai, tính kế. Một số tỏ ra hào hoa phong nhã, rộng rãi nơi công cộng. Về nhà thì thu lại, nhỏ mọn, tính toán hơn thiệt. Dễ hiểu vì nơi đô hội tiếng hoan hô, tiếng vỗ tay tạo nên cảm giác quan trọng, hào sảng hơn người. Đối với niềm tin còn thu nhỏ hơn nữa. Tính toán chi li, từng phút giây cho Chúa. Không đủ giờ cho việc làm dấu đi ngủ nói chi đến đọc kinh tối. Đây không phải là xét đoán, tò mò hay dò lòng người. Nhìn cử chỉ bên ngoài để biết bên trong. Phản ảnh khao khát đời sống bên trong bộc lộ qua ao ước, lời nói, cử chỉ, hành động bên ngoài. Người giầu đời sống nội tâm không khao khát tràng pháo tay bề ngoài. Một người có nguồn vui nội tâm không cần bon chen, ao ước nguồn vui phù du, chóng qua, mau tàn.

Thực tế cuộc sống

Thực tế cuộc sống cho thấy ai cũng có mối lo. Kẻ ít người nhiều. Mấy ai thoát khỏi, trừ trẻ sơ sinh. Tuy nhiên có mối lo chi tiêu cần thiết, chính đáng. Bên cạnh đó có mối lo chi tiêu hầu như dư thừa, hoặc ngay cả bất chính. Chi tiêu chính đáng như tiền bắt buộc chi tiêu hàng tuần. Ngoài tiền mua thực phẩm còn nhiều thứ khác phải chi. Không tiền nhà, tiền điện, nước, thì tiền học phí, tiền xăng xe, tiền thuốc, tiền điện thoại. Thêm cả tiền bảo hiểm, quà tặng, nhà thờ, quyên góp lụt lội.

Chi tiêu thừa là chi tiêu không cần thiết, đôi khi để thoả mãn điều ước muốn, tệ hơn nữa là thoả mãn dục vọng. Chi tiêu mua vui bất chính làm cho đời thêm ưu phiền. Thực tế cho thấy càng lệ thuộc, bám víu vào vật chất nhiều chừng nào cuộc sống càng nặng nề, thêm đau khổ, lắm ưu phiền và giầu âu lo. Ít khao khát, dính bén vinh quang trần thế cuộc sống sẽ êm đềm hơn. Điều này không có nghĩa là phí phạm tài năng Chúa ban. Xử dụng chúng để phục vụ, mang lợi ích cho xã hội và Giáo Hội là cần thiết, rất thực tiễn. Điều nên nhớ là nguồn hạnh phúc thật không nhất thiết hệ tại ở bên ngoài. Lệ thuộc vào đời sống vật chất sẽ làm nghèo, giảm sức sống đời sống nội tâm. Một tâm hồn tìm nguồn an vui nơi ân sủng Chúa luôn sống vui tươi, hồn nhiên. Một tấm lòng khao khát đi tìm vật chất, nguồn vui trần thế, hào nhoáng ngoài xã hội là dấu chỉ nội tâm nghèo nàn. Như thế nguồn vui đích thực chỉ có thể tìm thấy trong Chúa, ân sủng Chúa ban.

Nguồn sống thật không đến từ vật chất, địa vị, vô tri, vô giác. Nguồn sống thật đến từ chủ thể sống động. Nguồn sống vĩnh cửu đến từ chủ thể vĩnh cửu. Ngoài Thiên Chúa ra không còn chủ thể nào vĩnh cửu. Chỉ ân sủng Chúa mà thôi, hồn tôi cũng đủ thảnh thơi muôn đời.


18. Đơn sơ như trẻ nhỏ.

(Trích trong ‘Đối Thoại với Thiên Chúa’ của Fernandez)

1) Sống giây phút hiện tại cách trọn vẹn, không lo lắng thái quá. Tư cách con Thiên Chúa. Tin tưởng và phó thác vào Người

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa khuyên chúng ta: "Anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.

Ngày hôm qua đã qua đi rồi. Chúng ta không biết mình có thấy được ngày mai hay không, vì không một ai có khả năng biết trước về tương lai. Tất cả những vất vả nhọc nhằn của ngày hôm qua còn lại với chúng ta hôm nay đều là lý do cho chúng ta tạ ơn Thiên Chúa: chúng ta cám ơn Chúa đã đổ xuống muôn vàn ân sủng và phúc lành; chúng ta cũng mắc nợ lòng biết ơn đối với anh em đồng loại. Chúng ta cũng sẽ đặt thêm hy vọng, dù chỉ là thêm một chút, vào kho tàng của chúng ta ở trên trời. Từ những ngày đã qua, chúng ta có thêm động lực để thống hối và đền bù tội lỗi, sai phạm và thiếu sót của mình. Chúng ta có thể mượn lời Ca nhập lễ trong thánh lễ hôm nay để nói về ngày hôm qua: "Chúa đã cứu trợ tôi, đã đưa tôi đến chỗ thênh thang rộng rãi, và đã cứu sống tôi bởi vì Người thương tôi". Ngày mai “chưa bắt đầu”. Nếu nó đến, nó sẽ còn tuyệt vời hơn cả những gì chúng ta ước mong, bởi vì Thiên Chúa chúng ta đã chuẩn bị nó cho chúng ta được thánh hóa: "Số phận con ở trong tay Ngài " (Tv 31,16). Khách quan mà nói, chúng ta không thể để cho những băn khoăn lo lắng về ngày mai đè nặng lòng mìh: Chúa sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết đề vui lòng đón nhận bất cứ điều gì thâu hoạch được. Nhất định chúng ta sẽ chiến thắng lẫy lừng!

Điều quan trọng là ngày hôm nay. Hôm nay là ngày mà chúng ta cần có để yêu thương, để phát triển trong sự thánh thiện, qua vô số những sự kiện nhỏ nhặt, tự như những họa tiết dệt nên dải lụa cuộc đời. Một số sự việc tự nhiên làm chúng ta cảm thấy dễ chịu, một số khác có lẽ khiến chúng ta ít hài lòng hơn, nhưng mỗi một sự kiện ấy đều có thể góp phần làm rạng rỡ viên đá quý mà chúng ta dày công gọt dũa và đánh bóng bằng sự hoàn hảo nhân loại và ý nghĩa siêu nhiên, vì Chúa và vì sự sống vĩnh cửu.

Chúng ta không thể đùa giỡn với ý nghĩ ấy. Đôi khi óc tưởng tượng bay bổng của chúng ta "tô son trét phấn" cho các thực tại quá khứ và trói buộc chúng ta bằng cách lý tưởng hóa một tương lai không phải nhọc công nỗ lực; hay trái lại nó bày ra một chân trời u ám, một viễn cảnh đen tối khiến chúng ta phải lo sợ hãi hùng. "Kẻ nào mải ngóng theo gió sẽ không đủ tự tin gieo hạt, và kẻ nào cứ dõi mắt nhìn mây sẽ chẳng dám thu hoạch ". Đó là một lời mời gọi chúng ta bắt tay thực hiện ngay bổn phận của phút giây hiện tại, tuy vẫn để tâm tìm kiếm cơ hội tốt hơn có thể xảy đến. Trong hoạt động tông đồ, chúng ta cũng dễ dàng trì hoãn một dự án để tìm một dịp thuận tiện hơn. Công cuộc rao giảng Tin mừng của các Tông đồ sẽ ra sao nếu các ngài lần lữa chờ đợi và tìm kiếm những hoàn cảnh thuận lợi hơn? Điều gì sẽ xảy ra nếu các môn đệ Đức Kitô dậm chân tại chỗ "chờ thời "? Hic et nunc: Ngay tại đây và lúc này là kẻ khởi điểm mà chúng ta phải chứng tỏ tình yêu Chúa bằng tất cả tấm lòng và bằng hành động.

Xét về mặt tự nhiên cũng như siêu nhiên, sự thánh thiện và hiệu năng hệ tại chủ yếu ở chỗ sống mỗi ngày như thể đó là ngày duy nhất trong cuộc đời mình: mỗi ngày đều là một ngày mà chúng ta phải lấy tình yêu dành cho Chúa lấp đầy vào đó; mỗi ngày đều là một ngày mà chúng ta phải hoàn tất, phải vun đắp "đầy tới miệng" bằng các việc tốt. Chúng ta không thể để cho bất kỳ cơ hội nào vuột khỏi tầm tay. Ngày hôm nay không quay lạil ần nữa đâu, mãi mãi, và Chúa mong chờ chúng ta lấp đầy ngày hôm nay bằng tình yêu và bằng những hành vi phục vụ nhỏ bé cho tha nhân. Thiên thần hộ thủ sẽ hân hoan vui sướng khi đem một ngày sống như thế dâng lên Thiên Chúa.

2) Lo lắng luống công vô ích. Chúng ta sẽ luôn luôn được ban đủ ơn để giữ vững lòng trung thành

“Anh em đừng lo lắng..." Lo lắng luống công vô ích chẳng không xóa được nỗi bất hạnh, mà còn làm chúng ta khổ sở hơn. Vì chúng ta phải nai lưng vác lấy gánh nặng mà chẳng nhận được ơn Chúa nâng đỡ. Sự lo lắng thổi phồng những khó khăn thử thách, trong khi lại bóp nghẹt khả năng thi hành bổn phận của giây phút hiện tại. Điều tệ hại nhất là chúng ta không tin tưởng Chúa Quan phòng luôn luôn can thiệp vào mọi tình huống của đời mình. Trong Bài đọc I hôm nay, Chúa hỏi chúng ta qua miệng ngôn sứ Isaia: Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ". Qua mọi việc xảy đến hôm nay, Thiên Chúa Cha vẫn luôn luôn yêu thương nghĩ đến chúng ta.

Và Đức Giêsu vẫn thường nhắc nhở chúng ta như thế! Người nói: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ". Chúng ta không thể vừa quán xuyến mọi việc hôm nay vừa lo toan cho ngày mai. Chúng ta luôn luôn nhận được ơn nâng đỡ hiệu quả để sống trung thành hôm nay, sống ngày đặc biệt này với niềm vui và bình an. Ngày mai sẽ mang đến những ân huệ mới, và gánh nặng của ngày mai sẽ không nặng nề hơn ngày hôm nay đâu. Ngày nào có lao nhọc vất vả, thập giá và niềm vui của ngày ấy. Mỗi một ngày trong đời sống chúng ta đều được Thiên Chúa Cha canh phòng cẩn mật. Chúng ta không thể chỉ biết có hiện tại mà thôi. Mọi nỗi lo âu sợ hãi chỉ chực nổi lên khi chúng ta không dốc hết nỗ lực ở đây và lúc này, khi chúng ta không đặt hết niềm tin tưông vào Chúa Quan phòng; những nỗi lo lắng sẽ tiêu tan hết khi chúng ta chân thành lặp đi lặp lại: “Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, vì Chúa muốn, như Chúa muốn, bao lâu Chúa còn muốn”.Lúc đó niềm vui và bình an sẽ đến.

Đôi khi chúng ta có thể bị cám dỗ muốn điều khiển cả tương lai, quên mất rằng cuộc đời mình nằm trong tay chúa. Đừng để mình như đứa trẻ mất kiên nhẫn bỏ qua nhiều trang sách để khám phá câu chuyện kết thúc thế nào. Thiên Chúa ban cho chúng ta ngày giờ đẻ sống, từng ngày nối tiếp nhau, để chúng ta lấp đầy sự thánh thiện vào đó. Trong Cựu ước, chúng ta đọc thấy câu chuyện người Do thái sống trong sa mạc: họ thâu nhặt manna Thiên Chúa ban cho mỗi ngày làm thức ăn. Một số người vì muốn dự trữ cho tương lai nên đã tích trữ nhiều hơn mức cần thiết. Ngày hôm sau họ thấy số manna ấy bị hư đi không thể ăn được. Họ đã thiếu niềm tin vào Thiên Chúa Giavê, Đấng canh phòng họ bằng tình phụ tử. Dĩ nhiên chúng ta nên biết khôn ngoan tiên liệu cho tương lai, nhưng không như những người Do thái hồi còn lang thang trong sa mạc chỉ dựa vào sức mình.

Niềm hạnh phúc của chúng ta phải là niềm hạnh phúc đầy hy vọng, khi chúng ta thi hành bổn phận hàng ngày, tập trung trí óc, con tim và mọi năng lực vào đó. Sự tin tưông vào Chúa - sự phó thác thánh thiện không làm giảm sút trách nhiệm trong khi hành động, và trong khi tiên liệu những việc phải làm trong mỗi tình huống. Cũng không có nghĩa là chúng ta không cần vận dụng sự khôn ngoan. Nó hoàn toàn trái ngược với thái độ thiếu tin tưởng vào Chúa và có cái nhìn mơ hồ về những việc sắp sẩy đến. Chúa lặp lại với chúng ta: "Vậy anh em đừng lo lắng về ngày mai". Chúng ta hãy tận dụng tốt ngày hôm nay.

3) Tìm kiếm Chúa trong công việc. Khổ chế trong trí tưởng tượng để sống giây phút hiện tại: tại đây và lúc này

Thiên Chúa biết chúng ta cần gì. Chúng ta hãy lo trước tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, và tất cả những cái khác sẽ được ban cho chúng ta.. "Chúng ta hãy vững vàng quyết tâm dành cả cuộc đời để phục vụ Chúa cách tận tụy. Chúng ta đừng mải tìm cách biết nhiều hơn về ngày mai, vì đó không phải là bận tâm chính đáng Mà đúng hơn chúng ta hãy quan tâm đến điều tốt có thể làm hôm nay. Ngay mai sẽ sớm trở thành hôm nay, và chúng ta sẽ quan tâm đến nó. Chúng ta cần tích lũy lượng manna cần thiết cho ngày hôm nay, chứ không nhiều hơn. Chúng ta đừng bao giờ nghi ngờ rằng không biết Chúa có mưa manna xuống không vào ngày hôm sau, rồi ngày kế tiếp, và ngày kế tiếp nữa, bao lâu cuộc đời lữ thứ của chúng ta còn kéo dài”. Thiên Chúa không bỏ rơi chúng ta đâu.

Khi chúng ta sống trong phút hiện tại, chúng ta chú tâm vào những sự việc và những con người thật. Điều này có nghĩa là chúng ta khổ chế trong trí tưông tượng và không phí thời gian cho những hồi ức vô bổ và không thích đáng. Óc tưông tượng có thể lôi kéo chúng ta vào một thế giới khác, xa rời cái thế giới duy nhất được tạo dựng để làm môi trường cho chúng ta nên thánh. Óc tưởng tượng của chúng ta thường làm lãng phí thời gian quý báu, và khiến chúng ta bỏ lỡ nhiều cơ hội chính đáng làm việc tốt. Thiếu sự khổ chế nội tâm, trí tưởng tượng và óc tò mò, là một trong những kẻ thù lớn nhất cản trở việcnên thánh.

Nếu chúng ta sống giây phút hiện tại, chúng ta sẽ chắc chắn loại bỏ được những nỗi sợ giả tạo về các hiểm họa tưởng tượng trong tương lai mà óc tưông tượng của chúng ta phóng đại lên hay bóp méo đi. Cũng có đôi khi những thập giá không có thực mà óc tương tượng của chúng ta vẽ vời ra đẩy chúng ta xa rời thực tế. Lúc đó chúng ta khổ sở một cách vô ích, thay vì vui vẻ chấp nhận những thập giá nho nhỏ Chúa gởi đến cho con cái của Người mỗi ngày để tâm hồn được đầy ắp bình an và mềm vui.

Nếu chúng ta sống trọn vẹn giây phút hiện tại vì Tình Yêu, chúng ta không thể không nhận ra những chi tiết khó hiểu mời gọi mình sống trung thành. Tại đây và lúc này chúng ta cần phải giữ đúng thời khóa biểu đã đặt ra cho bản thân: Tại đây và lúc này chúng ta cần phải quảng đại với Chúa, kẻo chứng ta rơi vào trạng thái dửng dưng nguội lạnh. Tại đây và lúc này Thiên Chúa đang mong đợi chúng ta chế ngự bản thân trong tiểu tiết này hay tiểu tiết khác mà chúng ta thấy khó thực hiện hay khó bỏ qua. Người muốn chúng ta tiến lên tại những "tọa độ nóng" này, những điểm quan trọng làm chất liệu cho cuộc hồi tâm đặc biệt.

Chúng ta hãy cầu xin Ba Ngôi Cực Thánh ban ơn giúp chúng ta sống giây phút hiện tại của từng ngày với một con tim đầy ắp Tình Yêu, như thể đó là lễ vật cuối cùng của cuộc đời chúng ta trên trần gian.


19. Thiên Chúa quan phòng

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)

Sống trên đời, ai cũng có những lo âu, những suy nghĩ, những tính toán. Hầu hết, ai cũng lo lắng cho miếng cơm manh áo, ai cũng tìm cách kiếm ra nhiều tiền để đời sống được sung túc, dư dật, để cuộc sống được hạnh phúc theo như suy nghĩ thường tình của con người. Tuy nhiên, Chúa dạy con người đừng quá lo lắng cho mạng sống mình nhưng phải tin cậy vào sự quan phòng chăm sóc của Thiên Chúa.

Chúa Giêsu cảnh báo con người đừng quá nô lệ vào tiền của, vào vật chất mau qua ở đời: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền của được” (Mt 6, 24). Chúng ta thấy, đồng Tiền ở trong đoạn Tin Mừng này được viết chữ hoa, chữ nổi, ma Tiền theo tiếng Aram là Ma Quỷ, là Mammôn, có nghĩa là thần. Tiền được nâng lên bậc Thần Tiền, nghĩa là nó có sức mạnh vượt bực. Do đó, con người phải chọn lựa giữa Tiền và Thiên Chúa, giữa tự do và nô lệ.

Vâng, sống trên gian trần, trên thế giới, cuộc sống của mỗi người là một cuộc lựa chọn liên lỉ, không ngừng. Và những chọn lựa mãi mãi này sẽ giúp con người trở nên tốt hay xấu. Chọn lựa là một sự từ bỏ không tiếc nuối. Đã chọn điều này thì phải bỏ điều khác. Đã từ bỏ phải đòi nhiều hy sinh. Chúa Giêsu muốn người môn đệ Chúa phải chọn lựa dứt khoát, không lưng chừng, không tiếc nuối, không thỏa hiệp, không bắt cá hai tay. Bởi vì, người bắt cá hay tay luôn luôn là kẻ thua thiệt. Hoặc họ chọn Chúa làm chủ hoặc họ chọn nô lệ cho Mammon, ma quỷ. Ở Việt Nam trước đây báo chí đã đăng một bài thơ thật dí dỏm về tiền: “Tiền là Tiên, là Phật. Tiền nổi bật cuộc đời. Tiền là cái đà danh vọng. Tiền là hết ý”. Tục ngữ ca dao chúng ta cũng có câu để đời: “Có tiền mua tiên cũng được”, ngay trong việc đạo cũng có câu: “Có thực mới vực được đạo”. Nhưng Chúa Giêsu hôm nay đã đưa ra hai hình ảnh chứng minh sự chăm sóc quan phòng của Thiên Chúa: “Chim trên trời, hoa huệ ngoài đồng”. Thực tế, chim trên trời hay hoa huệ ngoài đồng nào chúng có đáng gì đâu, thế mà Thiên Chúa vẫn hằng hằng chăm sóc, nuôi dưỡng, lo lắng, để ý đến. Cho nên, con người là đối tượng Chúa để ý chăm sóc đặc biệt vì con người được Thiên Chúa tạo dựng giống hình ảnh của Ngài và đã được chính Chúa Kitô cứu chuộc bằng giá máu của Ngài.

Chúa Giêsu trong Tin Mừng và trong các bài đọc Chúa nhật hôm nay giúp chúng ta tự kiểm thảo xem đời sống theo Chúa từ trước tới nay chúng ta đã thật lòng sống theo giáo huấn của Ngài hay chúng ta ơ hờ sống nô lệ tiền bạc, vật chất? Chúng ta có để Chúa làm chủ cuộc đời chúng ta hay chúng ta chưa đủ tín thác vào sự quan phòng chăm sóc dưỡng nuôi của Chúa? Chúa Giêsu muốn chúng ta đừng tìm bảo đảm nơi của cải trần gian này, mà phải tìm điều căn bản cho cuộc đời trước đã, còn các thứ khác Ngài sẽ ban cho. Con người có lo lắng mấy đi nữa thì cũng chẳng giải quyết được gì cả: “Dù có lo lắng đi nữa, hỏi có ai trong các con kéo dài đời mình đời mình thêm được vài gang tấc không?”. Tín thác vào Chúa không có nghĩa là chúng ta để mặc Ngài, còn chúng ta cứ ăn chơi rồi sung sẽ rụng và chúng ta nhặt lấy! Không, chúng ta phải: “Tự giúp ta rồi trời sẽ giúp ta” (Aide-toi et Dieu t’aidera). Thiên Chúa tôn trọng con người vì con người quí hơn chim sẻ, quí hơn bông huệ rất nhiều. Con người là tạo dựng của Thiên Chúa, do đó, họ phải làm việc để sống, nuôi dưỡng gia đình và góp tay vào việc làm đẹp công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Chúa dạy con người trước hết hãy tìm nghĩa là hãy đặt đúng vị trí, đặt đúng công việc: việc nào trước, việc nào sau. Chúa nói: Trước hết hãy lo tìm kiếm Nước Chúa và sự công chính của Ngài. Thiên Chúa muốn chúng ta chọn Ngài ưu tiên trong cuộc sống. Đi ngược ý định này là đi ngược thánh ý và chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa.

Thiên Chúa mời gọi con người hãy bền tâm, kiên trì và cầu nguyện. Chúa khuyên chúng ta đừng lo lắng, chứ không ngăn cản chúng ta lo liệu, cân nhắc, tiên liệu. Đừng quá lo cho ngày mai vì ngày mai chưa đến. Tất cả đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Tất cả đều là hồng ân. Tất cả đều là ơn Chúa. Anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó (Mt 6, 34). Chúng ta hãy ký thác đường đời cho Chúa...

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết làm vinh danh Chúa trong đời sống của chúng con. Amen.


20. Không thể thờ hai chủ

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

Nói về tiền bạc, bao giờ Thánh Kinh cũng nói nghiêm túc. Thánh Kinh nói về tiền bạc hầu như nói về sự sống và sự chết. Với tiền bạc, người ta có thể cứu sống mình nhưng cũng có thể làm cho mình hư mất. Tiền bạc có thể mở cửa thiên đàng cho ai đó nếu biết dùng nó như một phương tiện, nhưng cũng có thể đóng lại với người ấy nếu chạy theo tôn thờ nó.

Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được”. Phải lựa chọn một trong hai. Không được bắt cá hai tay.

1. Luận về đồng tiền.

Đồng tiền là đồng chuyền, rất bẩn, rất có nguy cơ truyền bệnh. Nhưng nó là một thứ thiêng liêng và quý giá vô cùng. Sống là phải lo kiếm tiền, kiếm bằng mọi giá, kiếm càng nhiều càng tốt.

Đồng tiền là thứ không ở lâu bền với người ta, nay nằm trên tay người này, mai đã sang túi người khác. Người có thu nhập thấp, cảm nhận điều này rõ lắm: Tiền lĩnh về, chưa kịp nóng túi, đã rủ rê nhau sang túi mấy bà bán gạo, bán rau ngoài chợ gần hết! Đồng tiền cũng còn được gọi là đồng bạc, một phần vì thế chăng? Cái sự chuyền của đồng tiền nhiều khi cũng bay bướm nghệ thuật lắm. Xin nêu một ví dụ: Chiều 24-4-2009, phía đầu chiếc xe CSGT màu trắng, người đại úy dí ngón tay trỏ vào tập biên bản, người vi phạm hiểu ý, “nhằn” ngay trong túi ra một tờ polyme màu xanh. Người đại úy lật mấy trang biên bản lên, người vi phạm vội vã nhét tờ 100.000 đ vào đó. Bỗng, một cơn gió vô tình thốc tới làm mấy trang biên bản bay tốc lên, tờ 100.000đ bay vèo theo gió, chờn vờn đậu xuống vỉa hè cách đó một quãng. Người đại úy vội vã chạy theo, vội vã cúi xuống nhặt, rồi khoan thai đút vào túi… Tờ 100.000đ màu xanh giờ đã nằm yên trong túi quần “ông” đại uý (Bài CSGT “làm luật” ngay tại Hà Nội, báo Khoa học & Đời sống, thứ ba ngày 5-5-2009).

Vì cái sự chuyền tay nhau như thế, nên nó rất bẩn. Có lẽ trên đời này, đồng tiền là thứ bẩn thỉu nhất, bởi nó giây đủ các mùi vị, từ mùi thịt cá tanh tưởi, đến mùi hoa quả thum thủm do bị ế, bị ủng; từ mùi mồ hôi của chị bán bánh cuốn đến mùi dầu mỡ của ông lão sửa xe…

Nhưng vì nó là đồng chuyền, cho nên đồng tiền luôn luôn mang trong mình nó sự tổng hợp vĩ đại nhất của tất thảy các mùi vị, không thiếu một thứ gì… Chính vì đặc điểm này, mà mặc dù quý đồng tiền đến mấy, người ta cũng chỉ mân mê chứ rất ít khi thấy một ai đó đưa nó đặt lên mũi, lên môi để ngửi hay để hôn! Không ngửi, không hôn vì nó rất bẩn; nhưng bẩn đến mấy chúng ta vẫn luôn luôn trân trọng đồng tiền. Ví dụ: Khi bề dưới muốn biếu tặng ai tiền, người đó phải cho nó vào phong bì, đưa bằng hai tay (thậm chí còn phải cung kính dâng lên). Ngược lại, khi được bề trên ban tặng thì bề dưới phải đưa cả hai bàn tay ra đón nhận, đồng thời cất tiếng “xin cảm ơn” (thêm chữ “ạ” nữa thì càng tốt).

Đồng tiền bẩn, nên nó chứa rất nhiều vi trùng; chứa nhiều vi trùng nên nó cũng là nguồn lây đủ mọi thứ bệnh, có loại bệnh không thể nói nên lời…!

Tiền bẩn, muốn sạch thì rửa. Nhưng có thứ tiền không bẩn, thậm chí còn nguyên đai nguyên kiện, thơm phức mùi mực in, mà người ta vẫn đem đi… rửa. Sự rửa như thế không được khen mà lại gọi là một thứ… tệ, vâng tệ rửa tiền! Nhà nước Việt Nam gần đây mới thành lập Ban chỉ đạo phòng chống nạn này! Quốc tế người ta làm cái công việc chống này từ lâu lắm rồi. Chắc vì họ quản lý kém, thậm chí rất thiếu kinh nghiệm? Ngay đến bây giờ Việt Nam mới thành lập ban chỉ đạo chống chứ đã trực tiếp chống đâu? Nghĩa là vẫn trên tinh thần phòng là chính, chứ không phải chống là chính.

Đồng tiền cũng có sự khôn sự dại! Bà con ta vẫn thường nhắc nhau: “Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn” là gì? Tiền đi đâu mà được gọi là khôn vậy? Thời nào chứ thời buổi này, có lẽ ngay đến trẻ con nước mình cũng cảm nhận được điều đó. Bây giờ đi đâu, làm gì mà có sự đưa đường chỉ lối của đồng tiền (nhất là tiền ngoại), thì khó mấy cũng vượt qua, “kẻ thù nào đánh thắng”. Có tiền, mua gì cũng được. Thời nay người ta thường nói: “Cái gì không mua được bằng tiền, thì sẽ mua được bằng nhiều tiền hơn”. Cái vị thế của đồng tiền còn tạo thế lực cho người nắm giữ nó. Trong phạm vi hẹp là gia đình, ai có khả năng kiếm nhiều tiền, người đó là chủ; điều đó ai cũng thấy. Trong xã hội, thì dân gian có câu: “Vai mang túi bạc kè kè. Nói quấy nói quá, người nghe rầm rầm!”.

Sống đã vậy, chết thì sao? Có người nói, khi hai tay buông xuôi, đồng tiền chả có nghĩa gì nữa cả. Nói thế là xạo. Chết không kịp mang, nhưng chết rồi thì vẫn cần. Ngay lúc vừa ngậm hàm, người trong gia đình đã phải nghĩ ngay đến việc bỏ vào cái miệng vô hồn ấy một chút vẩy vàng. Rồi trên dọc đường tiễn đưa người quá cố, nhất là khi qua cầu, lại phải rải tiền xuống đường, xuống sông, cả tiền thật lẫn tiền âm phủ. Đó là tiền làm luật đối với bọn ma quỷ cản đường. “Trần sao âm vậy mà”! Ngoài ra, nhiều gia đình vào ngày giỗ, ngày Tết mua vàng mã đốt cúng cho người chết. Vậy người chết không cần tiền là cái gì?

Đồng tiền còn là vật có máu “lạnh”. Từ xa xưa ông cha ta đã nói: “Lạnh như tiền!”. Có thể xuất phát vì ngày xưa tiền làm bằng kim loại mà nhận xét như thế? Bây giờ dùng tiền giấy là chính, người ta vẫn không thay đổi cách nghĩ và cách nói đó. Thực ra cái “lạnh” của đồng tiền còn mang một ý nghĩa khác, nghĩa bóng nhiều hơn là nghĩa đen, chỉ những khi ta thiếu nó quá, cần đến nó quá, mới thực sự cảm nhận được cái chất “lạnh” của nó, đồng tiền!

Tiền là bạc. Bạc không chỉ là một loại quí kim, mà còn có nghĩa là bạc bẽo, bạc tình, bạc nghĩa. Vì tiền mất cha, mất mẹ, mất vợ, mất chồng, mất bạn hữu, mất họ hàng. Nguyễn Du trong thi phẩm Kim Vân Kiều đã phải thú nhận: “Trong tay đã sẵn đồng tiền, dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì”. Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chua xót nói rằng: “Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử. Hết cơm hết gạo, hết ông tôi”.

Tiền bạc không cần con người nhưng ai cũng cần tiền bạc. Dù tiền rách, tiền bẩn, tiền cũ… người ta vẫn dành cho nó một cảm tình. Có ai chê tiền đâu, từ người già cho tới trẻ em. Mà lạ lắm, những người lớn tuổi, dù có là mắt kém, thông manh lông quặm, tai điếc đặc ra, nhưng tiền vẫn không đếm lộn. Ai mượn bao nhiêu, thiếu nợ ngày nào, các cụ vẫn nhớ rõ ràng và nhớ chính xác. Chẳng trách chi, người ta cứ nói, “Đồng tiền nó liền khúc ruột”. Đụng tới khúc ruột, ai mà chẳng đau chẳng xót.

Vâng! Thế đó, đồng tiền là đồng chuyền, rất bẩn, rất có nguy cơ truyền bệnh. Nhưng nó là một thứ thiêng liêng và quý giá vô cùng. Sống là phải lo kiếm tiền, kiếm bằng mọi giá, kiếm càng nhiều càng tốt. Kiếm đến đâu, cất ngay vào ví, vào két hoặc gửi ra ngân hàng các nước trung lập. Nếu trót để bẩn quá, hoặc nghi… bẩn, phải rửa ngay. Rửa kín đáo, chớ để Ban phòng chống rửa tiền phát hiện! Còn khi chết? Yên tâm, đã có con cháu lo! Tuy nhiên cũng cần nhắc điều này: đồng tiền là rất bạc. Bạc tình, bạc cả nghĩa nữa. Không kín đáo, không có thế lực, dễ bị nó đưa tay vào còng có ngày! (Trần Huy Thuận).

Người ta thường nói rằng, tiền bạc có thể:

* mua được cao lương mỹ vị, nhưng không thể mua được sự ngon miệng.

* mua được thuốc thang đắt giá, nhưng không thể mua được sức khỏe.

* mua được giường êm nệm ấm, nhưng không thể mua được giấc ngủ.

* mua được nhà cao cửa rộng, nhưng không thể mua lấy mái ấm gia đình.

* mua được trò chơi giải trí, nhưng không mua được sự bình an tâm hồn.

* mua được sách vở tài liệu, nhưng không mua được sự thông minh.

* mua được tôn giáo, nhưng không mua được ơn cứu độ.

* mua được Passe-port và Visa để đi khắp thế giới, nhưng không thể mua được hộ chiếu để vào Nước Trời.

2. Chúa Giêsu đối với tiền của.

Chúa Giêsu không phi bác tiền của, không phê phán sự giàu sang, cũng không bác bỏ người giàu. Ngài chỉ nhắc nhở thái độ phải có đối với tiền của và cảnh cáo, phê phán những người giàu trong việc sử dụng tiền của.

Tiền của tự nó không xấu. Xấu hay tốt là tuỳ ở nhận thức, thái độ và cách sử dụng của con người. Chúa Giêsu lên án sự ham mê tiền của, coi đó như tất cả cuộc sống, đến nỗi dành hết sức lực, thời gian, trí tuệ để cố chiếm hữu thật nhiều; thậm chí bán rẻ cả lương tri, phẩm giá con người. Tiền của trở thành thần tượng và chiếm chỗ độc tôn trong lòng người. Ngài kết án những người vì đồng tiền mà sống bất công, lừa thầy phản bạn, coi thường mạng sống và danh phẩm người khác. Ngài còn phê phán chỉ trích những người giàu sang chỉ biết cậy dựa vào tiền bạc và sống ích kỷ hưởng thụ.

Tiền của là phương tiện tốt nếu được dùng để làm điều thiện, giúp đỡ người thiếu thốn, phục vụ khoa học vì những mục đích tốt. Chỉ có cách đó mới làm cho người ta không làm tôi của cải. Lòng tham lam, việc tích trữ của cải là mối nguy hiểm lớn cản trở con đường tìm kiếm Nước Trời và đưa ta xa rời Thiên Chúa. Người thanh niên giàu có được mời gọi bán tất cả của cải tài sản để đi theo Chúa đã buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải. Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh: Người giàu có vào Nước Trời còn khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim. Vì thế không lạ gì thái độ cương quyết của Chúa Giêsu là đòi hỏi một chọn lựa dứt khoát: Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của.

Chúa Giêsu luôn đứng về phía người nghèo và bênh vực kẻ cô thế. Ngài sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo. Ngài chọn các môn đệ giữa số những người nghèo. Ngài hằng quan tâm, yêu thương vỗ về những người nghèo và tuyên bố mối phúc đầu trong bát phúc: “Phúc cho những người nghèo khó vì Nước Trời là của họ” (Lc 6,20; Mt 5,3). Yêu người nghèo, nhưng Chúa Giêsu không hề kết án người giàu và tẩy chay sự giàu có. Ngài ân cần tiếp đón và đối thoại với người giàu, sẵn sàng đến dùng bữa với họ khi được mời; Ngài để cho những phụ nữ giàu đi theo giúp đỡ trong hành trình sứ vụ. Tuy nhiên, Ngài nặng lời chỉ trích những người giàu chỉ biết bám víu vào tiền của, sống ich kỷ hưởng thụ bỏ mặc người nghèo đói cơ cực (x. Lc 16,19-31: dụ ngôn người giàu và Lazarô), làm giàu cách bất lương, ỷ vào tiền của mà khinh dễ kẻ khác.

3. Ưu tiên tìm kiếm Nước Trời

"Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đời sống công chính như Người đòi hỏi".

Ưu tiên hàng đầu của người môn đệ Chúa Giêsu là Nước Thiên Chúa. Mọi sự khác cũng cần thiết nhưng không được đặt lên trên Nước Thiên Chúa. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đây là vấn đề giá trị khi chọn lựa. Thế gian thường lấy của cải vật chất làm ưu tiên số một và cho rằng của cải giàu sang sẽ giải quyết được mọi vấn đề của xã hội và của con người. Con cái Chúa thì sẵn sàng từ bỏ tất cả để tìm kiếm Chúa và phụng sự một mình Chúa. Có Chúa là có tất cả; khi không còn gì nhưng còn có Chúa là còn tất cả vì Ngài là lẽ sống. Khi đã chọn Chúa, ắt sẽ biết sử dụng tiền của và tất cả những gì Chúa ban để phụng sự Ngài và Giáo hội qua việc phục vụ anh em đồng loại. Sống theo ưu tiên đó, người Kitô hữu sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì tiền của, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất. Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Ngài mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.

4. Kết luận:

Tiền của cần thiết cho cuộc sống. Thế nhưng nó cũng là nguyên nhân cho bao băng hoại, tráo trở trong xã hội, đổ vỡ trong gia đình, hư đốn trong bản thân. Thánh Phaolô khuyến cáo “Lòng ham tiền của là cội rễ mọi điều ác” (1Tm 6,10). Khi con người đã quá đề cao và bám víu vào tiền của, coi nó là vạn năng, là tất cả cuộc sống thì sẽ trở thành nô lệ cho nó.

Thiên Chúa ban cho con người tiền của chóng qua để sống, thăng tiến, phát triển, phục vụ... Giá trị của tiền của hệ tại con người biết sử dụng cách đúng đắn như phương tiện phục vụ anh em, đặc biệt người nghèo khổ, để đạt tới Nước Trời là hạnh phúc đích thực.

Nếu tiền của có thể là phương tiện mua tình bạn, để chia sẻ với tha nhân, thì nó cũng là một sức mạnh xấu, là cạm bẫy cần cảnh giác, như thư thánh Phaolô đã viết: “Những người giàu, anh hãy truyền cho họ đừng tự cao tự đại, đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng. Họ phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ” (1Tm6,17-18). Tiền của chỉ là việc nhỏ sánh với việc lớn là Nước Trời. Tiền của giàu sang nơi trần gian chỉ là tạm bợ, không thể tạo hạnh phúc đích thực cho con người; ngược lại nó làm con người vong thân khi bị nó chiếm hữu, và lúc ấy nó sẽ là chủ nhân ông và con người sẽ biến thành tôi tớ. Vậy nếu ở đời này, con người biết sử dụng tiền của tạm bợ cách tốt đẹp, họ sẽ được trao phó của cải vĩnh cửu trên trời.

Tiền của có thể trở thành phương tiện giúp đạt tới đích là Nước Trời, nhưng cũng có nguy cơ đẩy người ta ra xa Chúa để tìm kiếm những sự thuộc thế gian. Do đó, điều quan trọng là phải biết sử dụng tiền của như phương thế đạt Nước Trời. Chúa Giêsu muốn các môn đệ phải chọn lựa dứt khoát, không có thái độ lưng chừng hoặc bắt cá hai tay. Người bắt cá hai tay bao giờ cũng là kẻ thua thiệt nhất.

Lạy Chúa, xin cho con biết chọn Chúa là đối tượng duy nhất của lòng trí con. Amen.


21. Chú giải của Noel Quesson

Ngày nay, một cách đọc Tin Mừng hời hợi thật ra sẽ có hại. Đức Giêsu có lên án tiền bạc không? Người có khuyên người ta vô lo và lười viếng không? Đức Giêsu có thể có lý khi khuyên một người cha trong gia đình đang thất nghiệp đừng lo lắng cho ngày mai không? Khi cho ví dụ “chim trời không gieo, không gặt”, Đức Giêsu có bảo các bà mẹ. Trong gia đình đừng chuẩn bị các bữa ăn, đừng mua lương thực không? Có thật là Người bảo những người nghèo đôi khi thiếu cá nhưng nhu cần thiết phải chờ một phép lạ của sự quan phòng để không chết đói. Từ đó, Đức Giêsu chẳng phải là một con người hiền lành mơ mộng mà ngôn ngữ mang chất thi ca là một thứ trò chơi không có thật, không thể nào phù hợp với thực tế khắc nghiệt của kinh tế và những vấn đề nghiêm túc của việc phân chia các tài nguyên hay sao?

Hẳn ở đây phải có một ngộ nhận. Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu những lời của Chúa.

“Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dễ chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được...".

Thật là tai hại khi những dịch giả đã không dám giữ lại ở đây một chữ, quả thật là huyền bí mà Đức Giêsu chắc chắn đã sử dụng. "Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Mam-mon...". Từ ngữ này bằng ngôn ngữ A-ram đã được Matthêu giữ lại trong bản văn Hy-lạp bởi vì chắc đúng là do chính Đức Giêsu nói ra bằng tiếng mẹ đẻ của Người là tiếng Aram. Trong ngôn ngữ này; “Mam-mon" có nghĩa cụ thể là "tiền bạc", "thu hoạch", "lợi nhuận", "sự giàu có". Khi đặt "Thiên Chúa" đối lập với "Tiền Của”, Đức Giêsu dường nhu muốn nhân cách hóa tiền bạc... làm nó thành một thứ ngẫu tượng. Người ta có cảm tưởng rằng Đức Giêsu nghĩ đến "Tiền Của" như đó là đối thủ của Thiên Chúa, một cách diễn tả cụ thể về Xa-tan, “Ông Hoàng của thế gian này" bắt con người làm nô lệ và cố gắng đoạt chỗ của Thiên Chúa…Để hiểu rõ tư tưởng của Đức Giêsu, chúng ta cũng ghi nhận ở đây hai từ quan trọng. Người nói về "chủ”.. về “làm tôi"... Từ "chữ” dịch từ "kurios" thường có nghĩa là “Đức Chúa". Từ "làm tôi" dịch từ "douleuô"' có nghĩa là "làm nô lệ". Những nhận xét ấy làm chúng ta phải nghĩ rằng Đức Giêsu không chống lại tiền của một cách ngây thơ và không thực tế. Ở Nagiaret, Người đã có một nghề nghiệp: Người đã trải " qua kinh nghiệm kiếm sống đổ mồ hôi, sôi nước mắt. Và cũng như hai mươi gia đình tạo thành ngôi làng nhỏ miền quê ấy; "Người cũng phải sở hữu ít đồng ruộng và một vài gia súc. Đức Giêsu hoàn toàn biết rằng tiền bạc có ích trong các giao dịch thương mại. Người không có phản ứng sơ đẳng chống lại các ngân hàng,. hoặc các đồng tiền hoặc tiền thuế hoặc những người thu thuế! Điều này là một phần của đời sống Người và chúng ta các dụ ngôn..của Người: “Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi ". Người bảo họ: "Thế thì của Xêda, trả về Xêda" (Mt 22,19). Trong dụ ngôn những nén bạc và của cải chôn giấu Đức Giêsu còn khuyên những kẻ nghe Người nói "đem số tiền của họ gởi vào ngân hàng?. Đức Giêsu luôn tự đo đối với mọi ý thức (Matthêu 25,27).

Không, Đức Giêsu không lên án tiền của tự thân, trong việc sử dụng bình thường của tiền của. Trái lại, không có từ ngữ nào đủ mạnh để lên án "sự nô lệ cho tiền của": Anh em không thể làm tôi Mam-mon! anh em không có quyền làm mình trở thành nô lệ của ông chủ đáng sợ đó. "Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có!" (Luca 6,24). "Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất: vì kho tàng của anh ở đâu thì lòng anh ở đó" (Matthêu 6,19). "Hãy đi bán tài sản của mình" (Mt 19,21). Những lời ấy rất mạnh mẽ, những không lỗi thời và cổ lỗ: sự nô lệ cho tiền của là một bệnh "ung thư" thật sự của xã hội chúng ta. Nhắc lại như thế là việc tầm thường. Nền văn minh Phương Tây đang tự phá huỷ chính mình dưới nhịp độ dữ dội mà cuộc chạy đua đuổi theo cái "tiện nghi”, cái “xa hoa”, những đồ dùng lạ mắt bắt ép nền văn minh ấy. Chính con người trở thành nền văn minh của ‘đồ bỏ đi ấy của Xa-tan’: tiện nghi, xa hoa, những đồ dùng lạ mắt bắt ép nền văn minh ấy. Chính con người trở thành nạn nhân của "đồ bỏ đi ấy của Xa-tan" như cách gọi của tác giả người Ý, Papini. Biết bao nhiêu nhà doanh nghiệp có một cuốn lịch đen ghi các cuộc hẹn gặp nhưng không bao giờ còn sống chung với vợ và con cái của họ nữa? Càng không còn sống với Thiên Chúa! Còn nói gì về sự “phung phí" các nguồn tài nguyên của hành tinh này có nguy cơ làm ghẹt thở nhân loại của thế kỷ XXI? Còn nói gì về sự "cướp bóc” các nước thuộc thế giới thứ ba bởi các nước giàu có?

Không, tiền của không có mùi thơm. Đó là một quyền lực của cái ác đáng sợ khi nó "nô lệ hóa" Một người nào. Giá một chiếc xe tăng đủ để mua lương thực cho hàng trăm ngàn người đói khát!!! Và chúng ta không hề xấu hổ. Một máy bay siêu thanh khu trục và ném bom có giá bằng 40.000 nhà thuốc tây ở các làng mạc để cứu sống những em nhỏ!!! Và chúng ta không hay biết. Tiền của lẽ ra phải là một "đầy tớ" tuyệt vời, hiện đang là một "ông chủ” xấu.

“Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: Đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn, cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?”.

Công thức "đừng lo" sẽ trở lại bốn lần trong một vài hàng. Quả thật, sự "lo lắng" là một trong những hình thức nô lệ mà của cải kéo theo nó. Theo thống kê, thế giới Phương Tây hiện đại rất dễ bị tổn thương bởi chúng nhồi máu cơ tim và trầm uất thần kinh hơn phần còn lại của thế giới. Dường như Đức Giêsu muốn nói: Hãy nắm lấy đời sống ở khía cạnh tốt đẹp. Anh em hãy sống, nhưng hãy sống đi! Anh em dùng thời gian của mình để chạy, để lúc nào cũng có được nhiều tiền hơn: thỉnh thoảng anh em hãy dùng thời gian để sống! Và Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta trật tự rõ ràng của các giá trị. Lương thực, quần áo dù rất cần thiết... cũng chỉ để phục vụ sự sống! Đức Giáo Hoàng Gioan Phao lô II, trong một thông điệp của ngài đã nhắc lại những nguyên tắc ấy về sự khôn ngoan của Tin Mừng: “Ý nghĩa nền tảng sự thống trì của con người trên thế giới hữu hình…. chủ yếu là sự ưu tiên

Của luân lý (đạo đức) trên kỹ thuật, vị trí hàng đầu của con người trên đồ vật, sự ưu việt của tinh thần trên vật chất… Điều quan trọng là sự phát triển của con người chứ không chỉ là sự tăng bội của các đồ vật... Thà có ít hơn để hiện hữu nhiều hơn".

“Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho, thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi, thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vùa Sa-lô-môn, đủ vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế thì huống hồ là anh em, Ôi những kẻ kém tin?".

Những hình ảnh này không thể nào quên được. Nhưng chúng quá ấn tượng nên người ta có thể hiểu sai. Các bạn hãy đọc lại những lời ấy. Đức Giêsu không bao giờ nói rằng không nên làm việc. Đức Giêsu không bao giờ khuyến khích người nghèo đi xin xỏ hoặc nằm chờ sung rụng. Người không đề cao sự vô lo hoặc thói lười biếng. Thật là quá đáng. Có một thu "tôi mặc kệ". nào đó làm cho chính những người khác phải mang lấy những lo lắng vì chúng ta vô lo, chúng ta chất lên đầu họ. Trái lại, có những lo lắng, do lòng thương yêu người khác, những người mà chúng ta có trách nhiệm: Tin Mừng bảo chúng ta nhận lấy những lo láng này trên vai chúng ta như người ta vác một cây thập giá. Vả lại, nếu Đức Giêsu nói: "Anh em chớ làm gì cả, cư vô tích sự đi..." thì tại sao trong toàn bộ Kinh Thánh ngay từ đầu, Chúa đã nói điều ngược lại. Chương đầu tiên của sách Sáng Thế cho chúng ta lệnh truyền "hãy thống trị đất và bắt nó phục tùng". Thật ra Đức Giêsu khẳng định: “Vì thợ đáng được nuôi ăn" (Matthêu 10,10). Điều này được hiểu ngầm rằng người nào không làm việc, người đó không có quyền ăn như lời Thánh Phaolô đã kết luận (2 Thê-xa-lô-ni-ca 3,10). Và cũng phải đọc lại lời lên án nghiêm khắc của..người đã không làm sinh lợi nén bạc mà người đó đã nhận (Matthêu. 25,14-30). "Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài".

Vậy Đức Giêsu muốn nói điều gì? Khi Người nói "lo lắng mà làm gì?”.

Thế thì người nói một điều thật sự rất tốt cho mỗi người-chúng ta: Người bảo chúng ta phải thư giãn một chút phải chống lại sự căng thẳng thần kinh thái quá…

Người bảo chúng ta phải làm việc như "chim trời và hoa cỏ ngoài đồng": Các bạn hãy nhìn kỹ chúng... hãy nhìn hoạt động và các sự khéo léo mà chúng sử dụng để sống, để nuôi thân, để có nới trú ẩn? Và rồi Đức Giêsu nói với chúng ta nhiều nhất về Chúa Cha: anh em còn đáng giá hơn tất cả những tạo vật khác, vậy mà Người đã chăm lo cho chúng với sự chính xác.

“Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: Ta sẽ ăn gì, uống gì hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó dân ngoài vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”.

Tất cả lập luận của Đức Giêsu nhằm mời gọi chúng ta chớ quá lo lắng dựa trên một sự tin chắc của đức tin: Cha anh em “biết"? Trước đó, Người đã nói về sự cầu nguyện: "anh em đừng lải nhải như dân ngoại, vì Cha anh em đã "biết" rõ anh em cần gì (Matthêu 6,8). Hai quan niệm về Thiên Chúa đối lập nhau: Thiên Chúa ma thuật của những dân ngoại... và Thiên Chúa là Cha yêu thương con cái Người. Con người theo Đức Giêsu không hề là một người "vô lo"... mà chính là con người đã thay đổi mối lo! Người ấy đã trở nên say mê Nước Thiên Chúa: "Trước hết hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa!".

Làm tôi tớ cho Mam-mon trên thực tế là chỉ lo cho chính mình. Còn phục vụ cho Thiên Chúa là bắt đầu phục vụ tình yêu, là được tự do...

“Vậy anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ đề ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ về ngày ấy”.

Một câu châm ngôn bình dân. Đức Giêsu biết mình nói về điều gì. Cả cuộc đời, Người đã sống như thế. Đúng vậy Tại s ao lại thêm vào những lo lắng của hôm nay những lo lắng của ngày mai? Như thế, người ta sống mỗi ngày với nỗi sợ hãi những bất hạnh là có lẽ sẽ không đến. Chỉ cần sống những lo lắng mỗi ngày... ngày mai rồi sẽ biết! Lạy Chúa Giêsu, con cám ơn Chúa.


22. Suy niệm của Lm Hồ Thông

ƠN QUAN PHÒNG CỦA THIÊN CHÚA

Bản văn này còn thuộc “Bài Giảng Trên Núi”, ở đó thánh Matthêu đã quy tụ những lời dạy khác nhau của Chúa Kitô. Cung giọng của đoạn văn này gần với văn chương minh triết của Cựu Ước ở đó những châm ngôn, thành ngữ, dụ ngôn quen thuộc, hình ảnh thi vị, được tô điểm với những lời khuyên xử thế thực tiển. Nhưng bên kia sự giống nhau này xuất hiện một ghi nhận mới, cao vời: bài diễn từ mặc khải về Chúa Cha và sự ân cần chăm lo không ngừng của Ngài. Đức Giêsu vừa mới dạy cho các môn đệ Kinh Lạy Cha; Ngài vừa mới đòi hỏi các ông phải có đức ái không giới hạn theo hình ảnh đức ái của Cha trên trời. Bây giờ Ngài tiếp tục khi gợi lên đại gia đình tình yêu: tình phụ tử của Đấng đã sáng tạo hoa đồng cỏ nội, chim trời và con người. Đây là một trong những trang Tin Mừng rất đẹp về tấm lòng nhân ái của Thiên Chúa.

1. Thiên Chúa và tiền của:

Trước tiên Chúa Giêsu nhắc lại sự đòi hỏi mà Ngài đã phát biểu từ mối phúc đầu tiên: tinh thần siêu thoát khỏi những của cải trần thế. Ngài dựa trên câu châm ngôn thịnh hành: “Không ai có thể làm tôi hai chủ” mà Ngài áp dụng đặc biệt bằng cách đối lập Thiên Chúa với tiền của. Bản văn Hy-lạp đã gìn giữ từ A-ram “mammon”, nguyên nghĩa là của cải vật chất hay tài sản. Chắc chắn Chúa Giêsu đã muốn nhân cách hóa của cải vật chất để chỉ nó như một ông chủ.

Việc tôn thờ tiền của không xứng hợp với sự phụng sự Thiên Chúa. Những người quá lo lắng trích trử của cải tiền của tức tự mình làm nô lệ cho của cải và do đó không thể được tự do để thờ phượng Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã nói trước đó: “Kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó”. Hơn nữa, Thiên Chúa muốn một tình yêu trọn vẹn, không phân chia đối với Ngài. Việc từ chối của cải là điều kiện tiên quyết cho trọn một đời dâng hiến mà Ngài đòi hỏi.

2. Đừng lo lắng thái quá:

Chúa Giêsu không đòi hỏi phải từ bỏ những của cải thiết yếu, nhưng đừng quá cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn (6, 25-30), cho thân thể: lấy gì mà mặc (6, 31-33) và về ngày mai (6, 34). Những môn đệ Ngài sẽ có kinh nghiệm về lời khuyên này. Ở Tiệc Ly, Chúa Giêsu sẽ nhắc lại cho họ điều đó: “Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?”. Các ông đáp: “Thưa không” (Lc 22,35).

Cũng như cô Mácta tất bật lo toan nhiều việc để đón tiếp Ngài cho thật chu đáo trong khi cô em Maria ngồi dưới chân Chúa lắng nghe Lời Ngài. Chúa Giêsu đánh giá rằng cô Maria chọn phần tốt nhất. Chúa Giêsu thiết lập thứ bậc về hai cách thế bận lòng. Vào thời thiên sai, nỗi bận lòng ưu tiên phải là của cải tinh thần.

3. Tin tưởng vào Chúa quan phòng:

Việc Đấng Tạo Hóa ân cần chăm lo cho các loài thọ tạo của mình là một chủ đề Kinh Thánh, được khẳng định trong nhiều bản văn. Các Thánh Vịnh ca ngợi: “Hết mọi loài ngửa trông lên Chúa đợi chờ Ngài đến bữa ăn” (Tv 104, 27. 145,15; 136,25; 147,9).

Giữa những thọ tạo khiêm hạ nhất, Chúa Giêsu đưa ra hai ví dụ: chim trời và hoa đồng cỏ nội để mời gọi con người phải sống trong sự tin tưởng và phó thác trọn vẹn vào Người. Người đã ban cho chim trời có thức ăn hằng ngày, mặc dù chúng không nhọc công gieo vãi, không gặt hái và không trích trử lúa thóc vào kho lẫm. Người cũng sẵn sàng trang điểm hoa đồng cỏ nội nay còn mai mất một tấm áo sắc màu tuyệt vời hơn cả một cẩm bào của vua Sa-lô-mon.

“Hoa huệ”, từ ngữ chỉ không chỉ hoa huệ nhưng nhiều loại hoa đồng cỏ nội. Vào mùa xuân, miền Ga-li-lê nở rộ những hoa đồng cỏ nội này. “Nay còn, mai đã quăng vào lò”. Chúa Giêsu biết điểm xuyết những dụ ngôn của Ngài bằng chi tiết cụ thể: hoa đồng cỏ nội, bị héo khô, được các nông dân Galilê thu lượm lại, không chỉ dùng làm cỏ khô để nuôi gia súc, nhưng còn làm chất đốt để nướng bánh.

Từ những tạo vật hèn mọn như chim trời hay hoa đồng cỏ nội, Chúa Giêsu đề cập đến phẩm chất cao cả của con người. Con người là một tạo vật cao vời khôn sánh đối với chim trời hay hoa đồng cỏ nội. Ý thức về sự cao cả của mình phải cho giúp người Kitô hữu có một thái độ hoàn toàn khác với thái độ lương dân. Người môn đệ của Chúa Kitô phải tín thác trọn vẹn vào ơn quan phòng của Thiên Chúa, Cha chúng ta ở trên trời.

4. Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa:

“Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người”. Từ “công chính” phải được hiểu theo nghĩa kinh thánh: “sự thánh thiện”. Tìm kiếm sự công chính, tức là nổ lực nên thánh và thực thi thánh ý Thiên Chúa.

“Còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”, tức là những điều Ngài vừa mới đề cập đến: thức ăn, áo mặc, đây là những căn nguyên lo lắng đối với dân ngoại, nhưng không đối với con cái Thiên Chúa. Đức Giêsu không hứa với “những người công chính” là sẽ ban cho họ dư đầy của cải trần thế, nhưng đơn giản là đảm bảo cho họ nhu cầu cần thiết hằng ngày, như trong lời kinh mà Ngài vừa mới dạy: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”.

“Anh em đừng lo lắng về ngày mai”. Đừng bận lòng này mai là một thái độ tin tưởng và một sự biểu lộ tinh thần nghèo khó: “Chúa là hạnh phúc và tình yêu đời con, vì ngoài Chúa ra con tìm đâu thấy tình yêu và hạnh phúc đời đời”.

 

 


Các bài viết mới hơn
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Tư Lễ Tro_Lm. Đan Vinh - HSTM
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Tư Lễ Tro_Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Tư Lễ Tro_Nt. Maria Phạm Thực
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Ba Tuần VIII Thường Niên_Lm. Phêrô Trần Lê Thành Nhân
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Hai Tuần VIII Thường Niên_Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
     Suy niệm Lời Chúa Chúa Nhật Tuần VIII Thường Niên C_Lm. Đan Vinh - HHTM
     Suy niệm Lời Chúa Chúa Nhật Tuần VIII Thường Niên C_Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Tư Lễ Tro_Tam Thái
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Tư Lễ Tro_LM ĐAN VINH- HHTM
     Suy Niệm Lời Chúa Thứ Ba Tuần VIII Thường Niên_Lm. Giuse Nguyễn Duy Khang

Các bài viết cũ hơn
     Suy Niệm Thứ Hai Tuần VIII Thường Niên: ĐIỀU KIỆN ĐỂ VÀO NƯỚC TRỜI. Nt. Maria Anh Thư, OP
     Suy Niệm Chúa Nhật VIII Thường Niên A. Nhiều tác giả
     Suy Niệm Chúa Nhật VIII Thường Niên A: Yêu thương và tin tưởng vào Cha. Lm. Phaolô Nguyễn Văn Đông
     Suy Niệm Tin Mừng Thứ Bảy tuần VIII Thường Niên C: TIN NHẬN QUYỀN NĂNG THIÊN CHÚA NƠI ĐỨC GIÊSU. Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
     Thứ Sáu Tuần VIII Thường Niên Năm C: ĐỨC MẸ THĂM VIẾNG BÀ ÊLISABÉT. Lm. Đaminh Nguyễn Thành Tiến
     Thứ Năm Tuần VIII Thường Niên Năm C: ÁNH SÁNG ĐỨC TIN. Lm. Duy Khang
     Lời Chúa thứ tư sau Lễ Chúa Ba Ngôi : VINH QUANG CỦA ĐỨC KITÔ. Nữ Tỳ Thánh Thể.
     SUY NIỆM TIN MỪNG THỨ BA TUẦN VIII THƯỜNG NIÊN NĂM C. Nt. Maria Chinh Anh
     Thứ 2 tuần VIII Quanh năm: Hai thái độ sống đức tin ...
     Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Chúa Ba Ngôi. Nhiều tác giả