Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật Tuần VI Thường Niên Năm B
XIN
ƠN CHỮA LÀNH BỆNH CÙI THẾ XÁC VÀ TÂM HỒN
I.
HỌC LỜI CHÚA
1.
TIN MỪNG: Mc 1, 40-45.
(40)
Có người bị phong hủi đến gặp Người. Anh ta quì xuống van xin rằng:
“Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. (41) Người chạnh
lòng thương, giơ tay đụng vào anh ta và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!”.
(42) Lập tức chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch. (43)
Nhưng Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay (44) và bảo anh: “Coi chừng,
đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã
được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm
chứng cho người ta biết”. (45) Nhưng vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu
rao truyền và tung tin ấy khắp nơi, đến nỗi Người không thể công khai
vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành.
Và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Người.
2.
Ý CHÍNH: CHỮA LÀNH PHONG HỦI, DẤU CHỈ TRIỀU ĐẠI THIÊN SAI.
Với tư cách là Đấng
Thiên Sai, Đức Giê-su đã cảm thông với nỗi bất hạnh của một người
phong cùi, tượng trưng cho người tội nhân có lòng sám hối ăn năn. Do tin
Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai giàu tình yêu thương và đầy quyền năng,
anh cùi đã can đảm chạy đến với Người, quì xuống trước mặt Người và
kêu xin Người thương chữa anh được lành sạch. Trước thái độ khiêm tốn và
lòng tin cậy phó thác lớn lao như vậy, Đức Giê-su đã chạnh lòng thương,
đưa tay ra chạm vào người anh và lập tức anh được lành bệnh.
3.
CHÚ THÍCH:
- (c 40-42): + Có
người bị phong hủi: Luật Mô-sê qui định: vì phong hủi là
bệnh nan y và hay lây, nên những ai mắc phải bệnh này đều phải rời
bỏ gia đình, sống thành nhóm riêng ở nơi hoang vắng như trong nơi nghĩa
trang chôn cất người chết. Mỗi khi thấy có người nào đến gần, bệnh
nhân phải la lên: “Ô uế! Ô uế!”, để người ta biết mà tránh xa ra. Luật
cũng cấm những sự đụng chạm tiếp xúc với người phong hủi. Người ta
sẽ lập tức bị ô uế nếu đứng gần nói chuyện hay đụng chạm tới họ. Do
đó số phận của người cùi hủi vốn đã bị đau khổ do bệnh tật và
thiếu thốn các nhu cầu vật chất tối thiểu, lại càng bất hạnh hơn
về tinh thần do bị cô đơn. Dân Do Thái quan niệm bệnh phong hủi là hình
phạt của Thiên Chúa dành cho những tội nhân phản nghich với Ngài như bà
Mi-ri-am là chị ông Mô-sê đã bị Chúa phạt bị bệnh cùi vì đã chống đối Mô-sê (x.
Ds 12, 14).
+ Đến gặp Người: Người
bệnh phong hủi ở đây bất chấp sự cấm đoán của luật pháp, do tin cậy
vững vàng vào lòng từ bi nhân hậu của đức Giê-su, nên thay vì tránh xa
thì anh lại chạy đến gần để gặp Người. + “Nếu Ngài muốn, Ngài
có thể làm cho tôi được sạch”: Đây là một lời cầu nguyện
hoàn hảo đẹp lòng Chúa, vì nó biểu lộ lòng tin cậy phó thác của
bệnh nhân vào Đức Giê-su. Anh ta không đòi Đức Giê-su chữa bệnh theo ý
muốn của anh, mà để Người tự do hành động theo ý muốn của Người. +
Người chạnh lòng thương: Chính thái độ khiêm tốn, đầy lòng
cậy trông và phó thác ấy đã khiến Đức Giê-su chạnh lòng xót thương anh
và chữa cho anh lành bệnh. + Giơ tay đụng vào anh ta: Giơ
tay đụng vào người phong cùi là vi phạm Luật Mô-sê. “Đụng vào” cũng
có thể hiểu là sự “đặt tay trên đầu bệnh nhân”, một cử chỉ Đức
Giê-su thường làm khi đặt tay chúc lành cho trẻ em (x. Mc 10, 16), đặt
tay chữa lành nhiều bệnh nhân (x. Lc 4, 40 ; Mc 16, 18). Qua cử chỉ đặt
tay trên người phong cùi này, Đức Giê-su đã thông ban sinh lực của
Người để chữa bệnh cho anh. Tuy nhiên Đức Giê-su không phá hủy Luật
Mô-sê, nhưng để kiện toàn những gì sai sót (x. Mt 5, 17). + “Tôi muốn.
Anh hãy sạch đi: Lời nói biểu lộ ý muốn của Đức Giê-su đã
lập tức sinh hiệu quả, khiến bệnh phong biến mất và bệnh nhân được
lành sạch.
- (c 43-44): +
“Đừng nói gì với ai cả...”: Đức Giê-su cấm người phong hủi nói
ra ơn lành bệnh lạ lùng mà Người vừa làm cho anh. Lý do của lệnh cấm
này là vì Người sợ dân Do Thái đang trong tâm trạng nôn nóng mong Đấng
Thiên Sai mau đến để đánh đuổi quân Rô-ma, sẽ làm hỏng sứ mạng cứu thế
về thiêng liêng tinh thần theo thánh ý Chúa Cha. Chúa Giêsu yêu cầu kẻ Ngài
tẩy sạch khỏi bệnh phong cùi làm một việc hoán cải nghiêm túc và rõ rệt. Sự
thinh lặng mà anh ta phải giữ về biến cố anh được chữa lành sẽ ngăn cản anh
khỏi gán cho mình công trạng của việc thanh tẩy này, hoặc dùng nó để thu hút sự
chú ý đến mình. Sự thinh lặng sẽ gìn giữ anh khỏi chơi trò anh hùng, điều này
sẽ gây ra kiêu ngạo và phát sinh tội lỗi nữa.
+ hãy đi trình diện tư
tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã
truyền:
Việc truyền cho anh cùi trình diện với tư tế và dâng lễ vật theo Luật Mô-sê
nhằm để xác minh việc anh được khỏi bệnh và được quyền sinh hoạt lại với cộng
đoàn.
(c 45): + Anh đã bắt đầu rao truyền và
tung tin ấy khắp nơi: Do lòng biết ơn thôi thúc, người vừa khỏi
bệnh cùi không cầm lòng được lâu, nên đã loan truyền phép lạ được khỏi
bệnh đi khắp nơi. + Đến nỗi Người không thể công khai
vào thành nào được...: Dân chúng nghe biết Đức Giê-su chữa
được bệnh phong cùi, đã nô nức đi tìm kiếm Người, phần để thỏa mãn
sự tò mò, phần để được Người chữa lành bệnh. Vì sợ dân chúng đi theo
quá đông gây ồn ào ảnh hưởng đến an ninh chính trị khiến quân Rô-ma
có cớ can thiệp, nên Đức Giê-su đã không vào thành. Người chỉ giảng
dạy và chữa bệnh tại những nơi vắng vẻ bên ngoài thành phố (1, 45). Qua
đó cho thấy ai đã thực sự gặp được Đức Giêsu và được Người “chữa lành”, thì sẽ đương
nhiên “rao giảng về Đức Giêsu” khiến “nhiều người khác cũng đến gặp Người”. Chính
niềm vui và hạnh phúc được khỏi bệnh đã thúc bách anh cùi mở miệng để chia sẻ cho
tha nhân, giống như về sau, khi bị Thượng Hội Đồng Do thái cấm rao giảng danh
Đức Giê-su, hai Tông đồ Phê-rô và Gio-an đã đáp lại như sau: "Chúng tôi
không thể không nói lên những điều mắt thấy tai nghe" (Cv 4, 20).
4. CÂU HỎI: 1)
Hãy cho biết Luật Mô-sê qui định thế nào về cách đối xử với bệnh
nhân phong cùi? 2) Tại sao người phong hủi trong Tin Mừng hôm hay cố tình
vi phạm Luật khi đến gần Đức Giê-su thay vì lẽ ra phải tránh xa? 3) Lời
nói nào cho thấy lòng tin cậy phó thác của người cùi đối với Đức
Giê-su? 4) Đức Giê-su làm cử chỉ nào để chữa lành người cùi? 5) Khi
chạm tay vào người cùi, Đức Giê-su có vi phạm Luật Mô-sê không? Người muốn
nói lên lập trường của Người thế nào đối với Lề Luật? 6) Tại sao Đức Giê-su
cấm người cùi nói ra phép lạ chữa bệnh phong cùi mà Người vừa thực
hiện? 7) Tại sao người cùi đã bỏ ngoài tai để mở miệng rao truyền ơn lành đã
nhận được?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1.
LỜI CHÚA: “Ta muốn. Anh hãy lành bệnh!” (Mc 1, 41).
2.
CÂU CHUYỆN:
1) HIẾN THÂN TRỌN ĐỜI PHỤC VỤ NGƯỜI CÙI:
ĐA-MIÊNG là người Bỉ, gia
nhập dòng Trái Tim Chúa và Mẹ Maria. Sau khi làm linh mục, ngài được bề trên sai
đi giảng đạo tại Hạ Uy Di. Sau đó ngài tình nguyện đi giúp những người cùi hủi ở
đảo Molokai. Ngài đã hy sinh trót cả cuộc đời, sống với họ, giúp đỡ họ và chết
giữa họ.
Chiều hôm đó, trong ngôi
nhà thờ rất đông bệnh nhân phong cùi, đức giám mục đứng trên bàn thờ giới thiệu
với mọi người: "Các con thân mến, các con luôn mong ước có được một linh
mục đến ở cùng các con, yêu thương săn sóc các con, thì đây cha Đa-Miêng, một
linh mục người Bỉ sẽ sống chung với các con từ nay cho đến chết, các con có
thích không?" Cả nhà thờ đều xôn xao và thì thầm to nhỏ. Cha Đa-Miêng đứng
cạnh đức giám mục nghe họ nói mà không hiểu gì. Rồi họ lần lượt tiến lên cung
thánh với vẻ mặt thân thiện. Khi thấy họ đến gần, cha sợ nổi da gà giống như thấy
những thây ma còn sống. Họ tiến đến bên cha, người thì sờ vào mặt, người thì sờ
vào tay, người thì sờ vào áo cha. Cha hỏi đức giám mục: "Thưa đức cha, họ
làm gì vậy?" Đức cha trả lời: "Họ nói họ không thể tưởng tượng được
một người ở phương xa, chẳng có bà con huyết thống với họ, trẻ trung, đẹp trai,
không bệnh tật như họ, tự nhiên lại đến phục vụ họ trên mảnh đất cùng khốn này.
Họ không tin mắt mình nên đến sờ vào người của cha, xem cha có bị bệnh phong
như họ không, và họ nói: "Không, cha đẹp quá, cha không bệnh tật gì cả,
cha thương chúng ta quá !".
Sống với những người phong
ở đây được một thời gian, dần dần Cha Đa-Miêng đã hòa đồng được với họ, nói
tiếng của họ, cha không còn cảm thấy tởm gớm họ như những ngày đầu. Cha đã quá
yêu Chúa Giê-su bị bỏ rơi trong họ, nên chẳng còn thấy ghê sợ nữa. Sau nhiều
năm cha cũng bị lây bệnh phong, thân mình lở loét, nhức nhối, mặt mày sần sùi,
trông rất dễ sợ. Một số báo ở Bỉ đăng hình cha và kể lại sự hy sinh vĩ đại của
cha. Thân mẫu của cha, mắt mờ không đọc chữ được, nhìn vào bức hình bà cũng
chẳng nhận ra đứa con trai thân yêu ngày nào. Bà hỏi đứa cháu: "Hình ai
đây mà trông đáng sợ vậy?" cô cháu trả lời: "Một người bị bệnh phong trên
đảo Mô-lô-kai của cha Đa-Miêng đấy". Qua mắt được bà cố, nhưng họ lại nhìn
nhau và không ai bảo ai, tất cả mắt đều ngấn lệ. Cha Đa-Miêng đã sống với người
phong trên hòn đảo này cho đến chết. Chính tình yêu Chúa đã giúp cha can đảm hy
sinh suốt đời vì họ.
Phong, hủi hay cùi là một
thứ bệnh nan y và đáng sợ, nó làm cho cơ thể người ta bị lở loét. Người mắc
bệnh dù còn sống nhưng đã trở thành một xác chết biết đi, với một thân hình
nhớp nhúa hôi thối. Đó cũng chính là hình ảnh của một tâm hồn tội lỗi, bởi vì
tội lỗi cũng làm cho người ta trở nên nhơ uế như vậy. Tuy nhiên chúng ta đã có
một vị lương y tài giỏi là Chúa Giêsu. Nếu muốn được chữa lành, hãy noi gương người
phong cùi đến sấp mình cầu xin Chúa xót thương. Người sẽ dạy chúng ta đến gặp linh
mục trong tòa giải tội để nhận được ơn tha thứ tội lỗi.
2) TÌNH
YÊU CHÚA THÚC BÁCH MỘT LINH MỤC SẴN SÀNG PHỤC VỤ NGƯỜI CÙI:
Đức Cha CÁT-XE (JOHN
CASSAIGNE) sinh năm 1895, là Linh Mục thuộc Hội Truyền giáo Ba lê đã được nhà
dòng phái sang Việt Nam truyền giáo (1926). Năm 32 tuổi Linh mục Cát-xe đã được
đặt làm Cha Sở của một giáo xứ ở miền cao nguyên Di Linh. Sau mười lăm năm xây dựng
công việc truyền giáo từ chỗ không có một người dần dần lên đến 400 người, biến
một buôn người thượng trở thành một xứ đạo sầm uất. Về sau dù đã được thăng lên
làm giám mục cai quản giáo phận Sài-gòn (1941), nhưng ngài vẫn thương yêu làng
cùi với 133 người con mà ngài đã chăm sóc. Rồi đến khi phát hiện ra dấu hiệu bị
bệnh cùi (1943). Ngài đã xin và được bề trên chấp thuận cho từ chức Giám Mục Sài-gòn
để quay về sống với giáo dân làng cùi suốt 30 năm trời cho đến chết.
Sáu tháng cuối đời khi bị đau
đớn do bệnh cùi, ngài đã nói với các tín hữu con cái rằng: “Tôi hy vọng Chúa
nhân lành sắp đưa tôi về nước Chúa, nhưng tôi hứa sẽ vẫn ở bên anh chị em luôn mãi”.
Trong tờ di chúc, ngài viết: “Tôi ao ước được chịu đau khổ vì danh Chúa. Tôi cũng
ao ước được luôn chịu đau khổ với anh chị em. Tôi ước ao được yên nghỉ giữa
những người anh em đau khổ. Tôi sung sướng được hiến thân cho quê hương Việt
Nam trọn đời của tôi” (từ năm 1895 đến năm 1973). Rồi ngài đã chết trong bình
an và được an táng ở giữa làng cùi vào ngày 5-11-1973.
3) HÀN MẶC TỬ - THI SĨ THIÊN TÀI BỆNH CÙI:
Hàn mặc Tử tên thật là
Nguyễn Trọng Trí. Ngày 20 tháng 9 năm 1940, Trí được nhập trại phong tại Quy
Hòa thời Mẹ Bề Trên Ma-ri-a Ju-et-ta. Sau ba tuần được điều trị, nhờ được các
nữ tu Phan Sinh (Franciscaine) tận tụy chăm sóc mà bệnh tình của Trí đã thuyên
giảm. Từ tuần lễ thứ tư, sinh hoạt hằng ngày của anh cứ đều đều: 5 Giờ sáng thức
dậy ra nhà nguyện đọc kinh dâng lễ và rước lễ sốt sắng. 7 giờ, Trí cùng anh em
bệnh nhân ăn sáng với cháo trắng và đường tán đen. 8 giờ được chăn băng bó,
uống thuốc và nói chuyện với anh em đồng bệnh. 11 giờ ăn cơm trưa rồi nghỉ
ngơi. 14 giờ 30 lên nhà nguyện đọc kinh lần hạt đến 17 giờ thì dùng cơm chiều…
Trí là một người rất có lòng sùng kính Đức Maria, luôn cầu nguyện với Đức Mẹ và
thứ bảy nào cũng đi xưng tội. Năm 1940, Trí bị bệnh kiết lỵ nặng nên kiệt sức!
Đêm ngày 8. 11. 1940 Trí sáng tác bài thơ cuối cùng “Tâm Hồn Thanh Khiết” để ca
tụng Đức Maria cùng các bà mẹ ở dưới đất là thân mẫu anh và các nữ tu Phan Sinh
đã săn sóc cho anh. Cuối cùng Hàn Mạc Tử đã chết an bình vào ngày 11 tháng 11,
1940, hưởng dương 28 tuổi. Thi sĩ Hàn
Mặc Tử đã để lại cho đời nhiều bài thơ rất hay và đầy lòng kính tin sùng mộ.
4) PHƯƠNG THUỐC HỮU HIỆU ĐIỀU TRỊ TẬN GỐC BỆNH CÙI
TINH THẦN:
Câu chuyện về một bà
"đạo đức" kia có kinh tế gia đình ổn định, không phải bận bịu với
việc sinh nhai hằng ngày, nên bà có nhiều gian tới nhà thờ dự lễ và còn có nhiều
giờ gặp gỡ bạn bè để “tám” chuyện. Nhưng bà thắc mắc tại sao có nhiều người sau
lần gặp đầu đều không muốn nói chuyện với bà. Một nhóm người đang trò chuyện vui
vẻ, nhưng khi vừa thấy bà đến gần muốn nhập bọn thì họ liền im bặt. Có người
vừa thấy bà từ đàng xa đã vội quay đi hướng khác. Bà đã đến hỏi ý kiến một linh
mục giàu kinh nghiệm mục vụ. Sau khi hỏi bà thêm một số chi tiết, vị linh mục đã
đưa ra kết luận như sau: “Sở dĩ người ta xa lánh bà vì họ coi bà là giống như một
con rắn độc !” Sau đó cha giải thích thêm: “Vì trong đầu bà chứa toàn những ý
nghĩ không tốt về người khác, nên dẫn đến chỗ hay xét đoán ý trái cho người
này, ganh tị nói xấu người kia, hoặc kết án bất công cho người mình không ưa...
Mọi người có dịp nói chuyện với bà đều cảm thấy tâm hồn bất an. Nghe cha giải
đáp lý do khiến mình bị người khác xa lánh, bà đã quyết tâm sửa lỗi và hỏi cha
mình phải làm gì? Cha linh hướng khuyên bà nên gia nhập vào nhóm học sống Lời
Chúa để hằng tuần hội họp nhau tìm hiểu Lời Chúa và quyết tâm sống theo gương
mẫu và lời dạy của Chúa Giê-su. Sau một thời gian được Lời Chúa thanh luyện, bà
đã được ơn Chúa biến đổi nên tốt và đã gây được thiện cảm của mọi người.
3.
THẢO LUẬN: Để nên
giống Đức Giê-su là Đấng từ bi và hay thương xót, mỗi người chúng ta
nên có thái độ thế nào đối với các bệnh nhân phải chịu nhiều đau khổ
như phong cùi, ung bướu, HIV-AIDS và những người bị khinh thường như cô ca-ve,
những cô lỡ mang bầu trước hôn nhân?
4.
SUY NIỆM:
1) THÁI ĐỘ XƯA NAY CỦA NGƯỜI ĐỜI ĐỐI VỚI BỆNH NHÂN
PHONG CÙI:
- Chiếc xe buýt Buôn Trấp,
ngoại ô thành phố Buôn Mê Thuột tạt vào trạm đón khách. Môt nữ tu nhỏ nhắn Dòng
Nữ Vương Hòa Bình nhanh nhẹn bước lên. Người soát vé hỏi đi đâu. Nữ tu nhanh
nhẩu đáp: “Làm ơn cho tôi xuống trại cùi E Ana !” Nghe thế, hành khách đang nêm
kín trên xe, bỗng nhiên tự động tránh xa nữ tu ấy. Thấy ghế trống do khách bỏ
lại, nữ tu liền nhìn quanh cúi đầu, mỉm cười cám ơn, rồi lặng lẽ ngồi xuống lần
hạt. Hình ảnh đó lâu nay đã trở nên qúa quen thuộc trên tuyến đường này. Thậm
chí người soát vé cũng ngần ngại, chẳng dám đến gần, để thu tiền vé của nữ tu
đang phục vụ trại cùi ấy !
- Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta
một hôm đang săn sóc một bệnh nhân mình đầy thương tích bên vệ đường. Thân mình
anh phát ra mùi hôi thối không thể chịu nổi. Khi mẹ Tê-rê-sa đang lau rửa các
vết thương cho anh, thì một khách qua đường trông thấy, đã nói với Mẹ Tê-rê-sa
như sau: “Trả cho tôi một triệu đô-la thì tôi cũng không thể làm được công việc
tởm gớm này !”. Mẹ Tê-rê-sa liền ngẩng đầu lên trả lời ông ta: “Tôi cũng vậy !”
Tiền bạc, của cải, vật
chất hay bất cứ sự gì trên thế gian này cũng không thể làm cho người ta sẵn
sàng hy sinh mọi sự để săn sóc các bệnh nhân bị bệnh phong cùi lở loét và hôi
thối như vậy. Nhưng nhờ tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa thì mọi sự đều có
thể. Vì “Đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được” (Lc 1, 37).
2) SỐ PHẬN ĐAU THƯƠNG CỦA BỆNH NHÂN PHONG CÙI THEO
LUẬT MÔ-SÊ:
Cho đến thời Chúa Giêsu,
luật Mô-sê tỏ ra rất khắt khe đối với những bệnh nhân bị phong cùi. Các luật lệ
này được ghi trong chương 13 sách Lê-vi, qui định tỉ mỉ rõ ràng những trường
hợp nào là bị bệnh cùi và cách thức người ta phải đối xử với kẻ ấy: Khi thấy những
triệu chứng bệnh ngoài da, người bệnh phải đến gặp vị tư tế để được khám nghiệm
xem có bị bệnh cùi không. Nếu bị xác định là bị bệnh phong cùi thì vị tư tế sẽ
tuyên bố người đó đã trở nên nhơ uế. Từ lúc đó họ không còn được ở chung với
người lành, không được sống trong làng, mà phải ra sống biệt lập tại nơi hoang
địa, và không được tham gia bất cứ sinh hoạt nào chung với cộng đồng, Họ không
được tới gần người lành, và không được để cho người lành tới gần mình. Họ phải
mặc áo rách, để tóc tai bù xù, và khi thấy người lành nào tới gần thì phải hô
to lên: “Dơ đấy ! Dơ đấy !” để cho người ta biết mình bị bệnh cùi mà tránh xa
ra. Nếu người bệnh đụng tới người lành hoặc có người lành nào đụng tới họ thì sẽ
trở thành dơ uế và bị khai trừ và bị cấm tham dự sinh hoạt trong một thời gian.
Người cùi bị lâm vào hoàn
cảnh khốn cùng: Thân xác tiêu hao, tinh thần băng hoại, đời sống chỉ còn là
những tháng ngày rên siết trong đau khổ tuyệt vọng.
3) THÁI ĐỘ CỦA ĐỨC GIÊ-SU ĐỐI VỚI BỆNH NHÂN CÙI:
- Tin Mừng hôm nay đề cập
đến phép lạ Đức Giê-su chữa lành cho một người phong cùi. Người cùi khi nhìn thấy
Đức Giê-su, thay vì phải tránh xa như Luật dạy, thì anh lại đến gần và kêu xin
Người chữa lành: ”Nếu Ngài muốn,
Ngài có thể làm cho tôi được sạch “ (Mc 1, 40).
Đây là một lời cầu xin đẹp lòng Đức Giê-su. Vì qua câu “Nếu Ngài muốn”, anh coi ý muốn
của Chúa quan trọng hơn ý muốn của anh, và anh phó thác để Người toàn quyền
quyết định cứu chữa cho anh hay không.
Còn chúng ta,
đã có khi nào chúng ta cầu xin Chúa với tâm tình phó thác cậy trông vào tình
thương và quyền năng của Chúa như người phong cùi hôm nay không? Đã có lần nào
khi cầu xin, chúng ta đặt ý muốn của Chúa lên trên ý muốn của chúng ta hay
chúng ta thường làm ngược lại là muốn được Chúa thỏa mãn theo ý chúng ta: “Xin
cho con được như ý”, thay vì lẽ ra phải cầu nguyện như Đức Giê-su phó thác mọi
sự trong tay Chúa Cha: “Lạy Cha. Nếu được, thì xin cho chén này rời khỏi con.
Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26, 39), hoặc như lời cầu của
người cùi hôm nay: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.
- Tin Mừng hôm
nay cũng thuật lại thái độ của Đức Giê-su đối với bệnh nhân cùi như sau: “Người
chạnh lòng thương, giơ tay đụng
vào anh và bảo: Tôi muốn, anh sạch đi ! Lập tức, chứng phong cùi liền biến mất,
và anh liên được lành sạch” (x. Mc 1, 41-42).
Chính do chạnh
lòng thương xớt nên Đức Giê-su đã vượt qua rào cản của Luật Mô-sê để đến gần
người bệnh phong hủi thay vì tránh xa họ. Người không sợ bị ra ô uế theo Luật khi
giơ tay ra đụng chạm vào các vết thương lở loét của anh để ban ơn chữa lành cho
anh.
Do chạnh lòng
thương nên Người truyền cho anh đi trình diện với tư tế và dâng của lễ theo
Luật Mô-sê để được tái hòa nhập với gia đình và xã hội, mà trước đó anh đã bị
cách ly ra sống trong nghĩa trang, vì bị coi như là người đã bị chết.
Ngày nay, mỗi
khi lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, mỗi người chúng ta cũng
được Chúa “chạnh lòng thương” chạm đến, hầu ban ơn chữa lành bệnh tật về thể
xác và tâm hồn.
4) THÁI ĐỘ CỦA
BỆNH NHÂN CÙI SAU KHI ĐƯỢC CHỮA LÀNH:
- Niềm vui được Đức
Giê-su chạm đến và ban ơn chữa lành khiến người cùi trong Tin Mừng hôm nay quyết
tâm chu toàn những điều luật đòi hỏi. Nhưng anh ta không thể im lặng, giữ riêng
cho mình niềm vui ơn cứu độ anh đã nhận được, nên đã nói ra cho mọi người được biết
ơn lành Chúa đã thương ban. Đây là thái độ nhiệt tình truyền giáo mà mỗi chúng
ta cần học tập noi theo.
- Mỗi lần xưng tội rước
lễ, chúng ta cũng được Chúa chạm đến để chữa lành tội lỗi và các thói hư, chúng
ta cũng phải mở miệng cao rao lòng thương xót của Chúa, để làm cho “danh Cha cả
sáng, nước Cha trị đến” và chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng theo lênh truyền
của Chúa: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các
miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1, 8).
5.
LỜI CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU, qua
bài Tin Mừng hôm nay, chúng con đã học được nơi Chúa tình thương và
sự cảm thông với những người đau khổ bất hạnh: Chúa đã chạnh lòng
xót thương người phong hủi, nên đã không sợ bị nhơ uế theo Luật định, Chúa
đã giơ tay chạm đến người bệnh và làm cho anh nên trơn sạch. Lạy Chúa,
nhiều lần khi đi thăm trại cùi để tặng quà và sinh hoạt với trẻ em
trong trại... con thấy mình không mấy thoải mái khi phải giao tiếp với
những bệnh nhân cùi. Con muốn được đeo khẩu trang và mang găng tay cho an
toàn, và mong sao cuộc thăm viếng sớm kết thúc... Hôm nay con rất hổ
thẹn khi biết Chúa đã giơ tay ra chạm vào người cùi để bày tỏ sự cảm
thông với họ. Con cũng cảm phục các chị nữ tu, tuy tuổi đời còn trẻ
mà đã tình nguyện dâng hiến tuổi thanh xuân, đến sống chung và phục vụ
các bệnh nhân phong cùi ! Con thấy chị em không quá sợ bị lây bệnh như con !
Xin Chúa chúc phúc và trả công bội hậu cho các chị em này. Xin cũng
giúp con sẵn sàng đến với những bệnh nhân khác như bệnh nhân bị ung
bướu, HIV-AIDS,... Đến với những cụ già cô đơn bất hạnh, những tù nhân
trong nhà tù... để xoa dịu phần nào nỗi đau của họ, và giúp họ vượt
qua hoàn cảnh, luôn tín thác vào tình thương bao dung của
Chúa.
- “Lạy Chúa Giêsu, xin ban
cho chúng con biết tỏa hương thơm của Chúa đến mọi lúc mọi nơi.
Xin hãy đổ tràn đầy tâm
hồn chúng con bằng lửa Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin hãy xâm chiếm toàn
thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống của Chúa.
Xin hãy chiếu ánh sáng tình
thương của Chúa qua lời nói và hành động của chúng con, để những người chúng
con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao
giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng chính cuộc sống chứng
tá, hy sinh quên mình và phục vụ với trái tim tràn đầy tình yêu thương của
Chúa.- (Lời cầu của Mẹ Tê-rê-xa Can-quýt-ta)
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA
NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM