Suy
Niệm Lời Chúa Chúa Nhật XXI Thường Niên Năm B
CHỌN TIN VÀ SỐNG THEO LỜI CHÚA VỀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG : Ga 6, 54a.60-69
(54a) Khi nghe Đức Giê-su tuyên bố : “Ai ăn Thịt
và uống Máu Tôi, thì được sống muôn đời”, (60) nhiều môn đệ của Người liền nói : “Lời
này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi ?” (61) Nhưng Đức Giê-su tự mình biết được là
các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, Người bảo các ông : “Điều đó,
anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư ? (62) Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã
ở trước kia thì sao ? (63) Thần Khí
mới lam cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với
anh em là Thần Khí và là Sự Sống. (64)
Nhưng trong anh em có những kẻ không tin”. Quả thật, ngay từ đầu,
Đức Giê-su đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người.
(65) Người nói tiếp : “Vì thế,
Thầy đã bảo anh em : Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không
ban ơn ấy cho”. (66) Từ lúc đó,
nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa. (67)
Vậy Đức Giê-su hỏi Nhóm 12 : “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn
bỏ đi hay sao ?” (68) Ông Si-mon Phê-rô
liền đáp : “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy
mới có những Lời đem lại sự sống đời đời. (69) Phần chúng con, chúng con đã tin và
nhận biết rằng : Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
2. Ý CHÍNH :
Sau khi nghe Đức Giê-su giảng về
Bánh Hằng Sống, là bí tích Thánh Thể mà Người sẽ ban, thì thính
giả chia thành hai phe : Một số khá đông, trong đó có cả các môn đệ
của Người, cho rằng lời ấy chói tai, không thể chấp nhận được và đã
bỏ không còn đi theo Người nữa (c. 66). Riêng Nhóm 12, khi được hỏi ông Si-mon
Phê-rô đã đại diện Nhóm tuyên xưng đức tin : “Bỏ Thầy thì chúng con
biết đến với ai ? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời”
(c. 68).
3. CHÚ THÍCH :
- C 54a.60 : + Ai ăn Thịt Tôi và
uống Máu Tôi thì được sống muôn đời : “Thịt và Máu” Đức Giê-su
là Bánh Thánh Thể sẽ được Người ban trong bữa tiệc Vượt Qua (x Mt
26,26). Do đó Thịt và Máu Đức Giê-su nói đây chính là Thánh Thể của
Người, sẽ trải qua cuộc khổ nạn và phục sinh, như một hy lễ đền tội
để ban sự sống cho trần gian. + Nhiều môn đệ của Người : Môn
đệ là những người nhận Đức Giê-su làm Thầy (Ráp-bi), nghe và thực
hành Lời Chúa, tích cực cộng tác với Người thi hành sứ vụ tông đồ.
Đức Giê-su có hai nhóm môn đệ là nhóm bảy mươi hai (x. Lc 10,1) và Nhóm mười hai (x Ga 6,66). + “Lời
này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi ?” : Khi nghe Đức Giê-su nói
sẽ lấy Thịt Máu mình cho người ta ăn uống, thì các môn đệ cũng như
đám đông dân Do Thái không chấp nhận. Phần vì không ai xẻ thịt mình ra
cho người khác ăn, hay lấy máu mình cho người khác uống ! Đàng khác, Luật Mô-sê cấm ăn máu
huyết, vì máu được coi là sinh khí tụ lại, được dành riêng cho chủ
tể của sự sống là Đức Chúa như Luật Mô-sê : “Các ngươi không được ăn
máu huyết của bất cứ xác thịt nào, vì mạng sống của mọi xác thịt
là máu của nó. Bất cứ ai ăn máu huyết sẽ bị khai trừ” (x. Lv 17,14).
- C 61-62 : + Điều đó, anh em lấy
làm chướng, không chấp nhận được ư ? : Ba điều người Do Thái
và môn đệ xầm xì không chấp nhận : Một là Đức Giê-su tự nhận mình
là Bánh hằng sống, đang khi cha ông họ xưa dù đã ăn Man-na mà vẫn
phải chết (x. Ga 6,49). Hai là Người tuyên bố mình từ trời mà đến,
đang khi họ biết rõ tông tích của Người (x Ga 6,42). Ba là Người khẳng
định : “Thịt Tôi thật là của ăn và Máu Tôi thật là của uống” (Ga
6,55), đang khi luật Mô-sê cấm uống máu và ăn thịt các con vật chết
ngạt, vì còn có máu trong thịt (x. Lv 17,10). + Thế thì anh em
thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao ? : Đức Giê-su cho
các môn đệ bằng chứng để tin Người là Đấng Thiên Sai và tin lời
Người giảng là sự thật. Bằng chứng ấy là Người sẽ từ cõi chết
sống lại và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha (x. Ga 3,13), như thị kiến
về vai trò và sứ mệnh của Con Người trong sách Ngôn Sứ Đa-ni-en (x. Đn
7,13).
- C 63-64) : + Thần khí : Là
một từ ngữ mang nhiều ý nghĩa như sau : Một là gió, với đặc tính vô
hình (x Ga 3,8). Gió có khi trở thành bão để Đức Chúa trút cơn lôi
đình hủy diệt những kẻ gian ác (x. Ed 13,13). Hai là hơi thở : Tuy yếu ớt, nhưng lại là
sức mạnh nâng đỡ và là điều kiện giúp thân xác sống động. Con người
sẽ chết khi không còn hơi thở do Thiên Chúa phú ban (x. St 2,7; 6,3). Ba
là linh hồn : Bao lâu Thần khí
còn ở với con người, nó biến xác thịt bất động thành sống động,
Thần Khí ấy gọi là linh hồn (x.
St 2,7). Chết là khi con người trút hơi thở trả linh hồn về cho Thiên
Chúa (x. Tv 31,6 ; Lc 23,46). Bốn là một đặc tình của Thiên Chúa : “Thiên Chúa là Thần Khí” (Ga
4,24) nên người ta phải thờ phượng
Thiên Chúa trong Thần Khí và Sự Thật (x. Ga 4,24). + Thần khí
mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì ! : Việc tạo
dựng con người đã được sách Sáng Thế thuật lại như sau : “Đức Chúa
là Thiên Chúa lấy bụi đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ
mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2,7). Như vậy xác thịt
chỉ là bụi đất, không thể sống động nếu không được Thiiên Chúa phú
ban thần khí là linh hồn. Chính thần khí ấy mới làm cho con người
sống động. Khi thân xác ngừng thở là lúc thần khí xuất ra khỏi thân
xác, và khi ấy thân xác trở thành xác chết, nên chẳng còn ích gì ! +
Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là Sự Sống : Lời
Chúa chính là Thần Khí thiêng liêng, là Lời phát xuất từ Thiên Chúa,
nhằm mặc khải các mầu nhiệm và các việc làm của Thiên Chúa cho
loài người (x. Xh 20,2), các giới răn và các điều sắp xảy đến (x. St
15,13-16). Lời Chúa sẽ ban Sự Sống đời đời cho con người (x. Ga 6,68),
nếu họ biết lắng nghe (x. Mt 13,23), tìm hiểu và xin vâng (x. Lc 1,34.38),
tuân giữ (x. Lc 8,15), và nhất là đem ra thực hành (x. Lc 6,47.49). +
Ngay từ đầu, Đức Giê-su đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào
sẽ nộp Người : Ngay từ đầu, Đức Giê-su đã có cái nhìn tiên
tri và thấy trước sự bất tín của Giu-đa (x. Mt 26,14-16). Tin mừng
Gio-an viết như sau : “Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói “Không
phải tất cả anh em đều sạch” (Ga 13,11).
- C 65-66 : + Không ai đến với
Thầy được nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho : Đức tin là một ơn
do Thiên Chúa ban cho loài người, để họ tin Đức Giê-su là “Đấng Ki-tô,
Con Thiên Chúa Hằng Sống” (x. Mt 16,16), lắng nghe và thực hành Lời
Chúa dạy để được vào Nước Trời và sẽ được sống muôn đời (x Ga
6,44.47). + Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với
Người nữa : Lý do nhiều môn đệ bỏ Đức Giê-su là do họ không
tin Người là Đấng Thiên Sai (x. Ga 6,29.40), không tin Người là Bánh
Trường Sinh từ trời mà đến (x. Ga 6,32-38), không chấp nhận lời tuyên
bố Người sẽ lấy Thịt mình cho họ ăn (x. Ga 6,52). + Nhóm Mười
Hai : Đức Giê-su đã lên núi và gọi đến với Người những kẻ
Người muốn (x. Mc 3,13) Sau khi cầu nguyện suốt đêm, Người kêu các môn đệ
lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ (x. Lc 6,12-13). Nhóm Mười Hai
này tượng trưng cho mười hai chi tộc dân Ít-ra-en Mới là Hội Thánh.
Sau này các ông sẽ được ngồi trên mười hai tòa, mà xét xử mười hai
chi tộc Ít-ra-en (x. Mt 19,28). Các ông sẽ được sự sống đời đời (x Mt
19,29), được “quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa
hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10,1; Lc 9,1), “Người sai các ông đi
rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân” (Lc 9,2).
- C 67-69 : + Cả anh em nữa, anh em
cũng muốn bỏ đi hay sao ? : Trước mặc khải về bí tích Thánh
Thể, Đức Giê-su đòi Nhóm Mười Hai phải tỏ thái độ dứt khoát : Tin
hay không tin, thể hiện qua việc tự do chọn ở lại với Thầy hay bỏ đi.
+ Ông Si-mon Phê-rô liền đáp : “Bỏ Thầy thì chúng con
biết đến với ai ? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời” :
Dù chưa hiểu hết ý nghĩa của Lời Chúa, nhưng Si-mon vẫn đại
diện Nhóm 12 chọn ở lại làm môn đệ Thầy và khẳng định niềm tin Lời
Thầy là sự thật và sẽ mang lại sự sống đời đời cho những ai đón
nhận (x. Ga 5,24). + “Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” : Trước
đó, Si-mon đã tuyên xưng : “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng
sống” (Mt 16,16). Ở đây, Si-mon lại công nhận Đức Giê-su là “Đấng Thánh
của Thiên Chúa” (x Ga 6,69) giống như sứ thần Gap-ri-en khi truyền tin đã cho
Đức Ma-ri-a biết về trẻ Giê-su như sau : “Vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ là
thánh, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35).
5. CÂU HỎI : 1) Tại sao dân Do thái và một số khá đông
môn đệ đã bỏ không đi theo Đức Giê-su nữa ? 2) Môn đệ là những ai và
Đức Giê-su có bao nhiêu môn đệ ? Tông đồ là ai và khác với môn đệ thế
nào ? 3) Người Do thái và các môn đệ lấy làm gai chướng không chấp
nhận ba điều nào của Đức Giê-su ? 4) Đức Giê-su đưa ra bằng chứng nào
cho thấy Người có quyền nói ra những điều mầu nhiệm ấy ? 5) Trong
Kinh thánh, thần khí mang bốn ý nghĩa nào ? 6) Đức Giê-su đã nói gì
về thần khí và xác thịt nơi mỗi con người ? 7) Tại sao Đức Giê-su
lại nói Lời Người chính là Thần khí và là Sự sống ? 8) Đức Giê-su
biết rõ ai trong Nhóm Mười Hai là người không tin và sẽ phản nộp Người
? 9) Đức Giê-su chó biết đức Tin phát xuất từ đâu ? Ta phải làm gì
để giúp người khác tin vào các mầu nhiệm được mặc khải ? 10) Lý do
nào khiến nhiều môn đệ đã bỏ không còn theo Đức Giê-su ? 11) Nhóm 12 Tông
đồ do Đức Giê-su tuyển chọn từ Nhóm nào ? Nhóm Tông đồ được Người
hứa ban các quyền lợi nào và phải chu toàn sứ mệnh gì ? 12) Si-mon
Phê-rô đại diện Nhóm Mười Hai trả lời thế nào khi được Đức Giê-su hòi
có muốn bỏ đi hay không ? Ý nghĩa của câu trả lời đó thế nào ? 13)
Si-mon đã tuyên xưng Đức Giê-su là ai ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Ông Si-mon Phê-rô liền đáp : “Bỏ Thầy thì
chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống
đời đời” (x. Ga 6,68) :
2. CÂU CHUYỆN:
1) DÂN ÍT-RA-EN ĐÃ CHỌN TIN VÀO ĐỨC CHÚA VÀ TUÂN GIỮ LỀ
LUẬT CỦA NGÀI:
Bài đọc một trong sách Gio-su-ê là một bản tường thuật
mang nhiều ý nghĩa quan trọng.
- Vào khoảng năm 1200 trước Công Nguyên, con cháu Gia-cóp đã
được Mô-sê cứu khỏi ách nô lệ cho người Ai Cập để vào sa mạc tiến về hứa địa.
Họ đã được Đức Chúa thanh luyện từ một dòng tộc con cháu Gia-cóp trở thành một
dân tộc Ít-ra-en, ký kết giao ước với Đức Chúa.
- Sau 40 năm lưu lạc trong hoang địa, dân Ít-ra-en đã đến được
sông Giô-đan, giáp ranh xứ Ca-na-an; Đây là Hứa Địa, được Đức Chúa hứa ban
cho Áp-ra-ham và dòng dõi đến muôn đời. Mô-sê trao cho Gio-su-ê quyền lãnh
đạo dân Chúa để đánh chiếm lại Hứa Địa Ca-na-an. Được Đức Chúa hỗ
trợ, dân Ít-ra-en đã chinh phục được các dân địa phương và chiếm được Hứa
Địa.
- Cuối cùng, Gio-su-ê đã triệu tập các chi tộc Ít-ra-en
và các đầu mục trong Đại Hội tại Si-khem. Ông cho dân Ít-ra-en tự do
chọn lựa : Hoặc là tôn thờ Một Đức Chúa duy nhất, hoặc tin theo các
tà thần của chư dân. Dân cũng được tự do chấp nhận hay từ chối Lề
Luật, được chọn trung thành hay chống lại Giao Ước mà họ đã ký với
Đức Chúa tại núi Khô-rép miền Si-nai...
- Bấy giờ toàn dân thưa lại rằng : “Chúng tôi không hề
có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác ! Vì chính Đức
Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông
chúng tôi lên từ đất Ai-Cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng
tôi những dấu lạ lớn lao, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường
chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc mà chúng tôi đi ngang qua. Đức Chúa đã
đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người E-mo-ri” (x Gs
24,14-28).
2) SẴN SÀNG CHẤP NHẬN
CÁI CHẾT ĐỂ BÀY TỎ LÒNG TRUNG THÀNH VỚI ĐỨC TIN:
Thời
vua Ga-liên bách hại đạo, trong quân đội Rôma có một sĩ quan xuất sắc lừng danh
là MA-RANH, bách chiến bách thắng. Ai cũng biết Ma-ranh sắp được thăng đại
tướng và chính ông cũng nghĩ như thế. Nhưng Ma-ranh là một người Công giáo có
đức tin vững mạnh. Ông luôn xin Chúa ban
ơn trung thành với đức tin khi chịu phép rửa tội. Lúc đó, có một viên đại tướng
của quân đội Rô-ma bị chết bất ưng. Hôm sau, vị toàn quyền cho mời Ma-ranh đến và
nói: "Tôi vừa được lệnh nhà vua để gọi ngài lên chức đại tướng, và tôi
được hân hạnh trao quyền tổng chỉ huy cho ngài, nhưng có người cho biết ngài là
người Công giáo, mà nhà vua thì không muốn để bất cứ người Công giáo nào trong hàng
ngũ sĩ quan quân đội hoàng gia. Vậy xin ngài cho biết ngài có phải là người
Công giáo không?". Ma-ranh đã khẳng định : "Thưa ngài, đúng thế, tôi
là người Công giáo". Viên toàn quyền nghiêm nghị nói : "Tôi cho ngài
ba tiếng đồng hồ để nghĩ lại, nếu chối Giê-su thì ngài sẽ làm đại tướng. Bằng không
ngài sẽ phải chết".
Ma-ranh
ra về, đến gặp vị giám mục và kể lại đầu đuôi câu chuyện. Vị giám mục cầm tay
Ma-ranh đưa vào nhà thờ, dẫn lên cung thánh, là chính nơi ngày xưa Ma-ranh đã
thề trọn đời trung thành với Chúa Ki-tô. Rồi vị giám mục rút thanh gươm bên
hông của Ma-ranh đặt bên cạnh sách Tin Mừng trên bàn thờ và nói: "Này
Ma-ranh, dễ giải quyết lắm, ông phải chọn một trong hai. Xin ông nhớ lại ngày
rửa tội, rồi tùy ý ông quyết định". Ma-ranh can đảm chọn cầm sách Tin Mừng
và nói : "Con xin thề trung thành với Chúa". Vị giám mục âu yếm nhìn
Ma-ranh và nói : Con hãy đi bình an, ngày hôm nay sẽ là ngày vinh quang của đời
con, ngày hôm nay là ngày con đại thắng". Và hôm đó, Ma-ranh đã bị đổ máu
vì đức tin Công giáo.
Trong
cuộc sống, có thể chúng ta không phải lựa chọn như ông Ma-ranh hay không bị
bách hại như các vị tử đạo, nhưng rất có thể chúng ta phải chọn giữa nhiều thử
thách, đòi chúng ta phải sống ngay thẳng, công bình, bác ái. Xin Mình Thánh
Chúa mà chúng ta rước lấy, tăng thêm sức mạnh để chúng ta vượt qua những khó
khăn thử thách ở đời này, nhất là về đức tin.
3) GƯƠNG TÍN THÁC VÀ
VÂNG LỜI CHA:
Ngày
xưa có một ông vua, ông có hai người con. Ông muốn thử xem con nào là đứa con
khôn để ông trao lại quyền cai trị của ông sau khi ông qua đời. Ông lấy một
viên kim cương thật quí gói trong một chiếc túi giấy xấu - còn viên kim cương
giả bằng thủy tinh thì ông bỏ vào một cái hộp trang trí rực rỡ. Sau đó ông cho gọi
2 đứa con lại. Ông cho người con cả chọn trước, cậu con cả nhìn hai gói, thấy túi
giấy xấu nên đã bỏ qua và chọn cái hộp đẹp.
Sau
đó đến phiên người con út. Anh
ta quan sát hai món đồ. Sau một phút suy nghĩ anh nhìn cha và nói : “Thưa
cha, xin cha lựa giúp con”.
Và đức vua đã tìm ra người sẽ kế vị mình. Sau đó đức vua đã truyền mở gói
quà được bọc trong túi giấy xấu ra khiến mọi người đều ngỡ ngàng. Sau đó đức vua
truyền cho thợ kim hoàn thiết kế một mũ triều thiên thật đẹp và viên kim cương
thật đã được đính lên mũ triều thiên đó. Rồi đức vua cho chiếc triều thiên này
vào một chiếc hộp bằng vàng đẹp hơn chiếc hộp kia ngàn lần. Cuối cùng đức vua
đã tuyên bố với thần dân rằng : “Mai sau con út trẫm sẽ lên nối ngôi trẫm và
trong ngày đăng quang sẽ đội chiếc vương miện quý giá này”. Sở dĩ người em được
chọn vì anh ta đã biết tín thác vào cha và luôn làm theo ý cha.
4)
PHÉP LẠ BÍ TÍCH THÁNH THỂ Ở LAN-XI-A-NÔ:
Năm 700, tại tu viện Thánh Lou-gi-no ở Lan-xi-a-nô bên I-ta-li-a, có một
linh mục tên là BA-SI-LI-Ô hoài nghi về mầu nhiệm Chúa Giê-su hiện diện thực sự
dưới hình bánh rượu sau lời truyền phép trong thánh lễ. Chúa Giê-su Thánh Thể đã
làm một phép lạ lớn lao còn lưu truyền đến ngày nay, như một bằng chứng hùng
hồn về bí tích Thánh Thể. Đó là phép lạ LAN-XI-A-NÔ.
Hôm ấy sau khi linh mục Ba-si-li-ô đọc lời truyền phép trong thánh lễ, tấm bánh
miến liền biến thành Thịt Chúa và rượu nho trong chén thánh liền biến thành Máu
Chúa Giê-su Vào năm 1713. Từ đó đến nay Thịt Máu Chúa vẫn luôn tồn tại. Thịt
Máu Chúa đã được lưu giữ trong một chiếc Hào Quang quí giá gọi là Hào Quang
Thánh Thể Lan-xi-a-nô. Đến năm 1971, tòa thánh đã cho phép các nhà khoa học được
xét nghiệm phép lạ này. Kết quả xét nghiệm cho thấy Thịt đó là một thớ thịt
trái tim, và Máu đó là máu người nhóm AB. Nên nhớ vết máu trên chiếc khăn liệm thành
Tu-ri-nô cũng thuộc về nhóm máu AB. Ngày nay, Thịt và Máu Chúa tiếp tục được
lưu giữ trong nhà tạm tại nhà thờ thánh Phan-xi-cô, một trung tâm hành hương nổi tiếng của thế giới.
Trong Tin Mừng hôm nay, sở dĩ nhóm môn đệ thứ nhất đã bỏ đi
không còn theo Thầy vì chỉ nghĩ đến bản thân : “Sao ông này lại có
thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn ?”(Ga 6,52), đang khi nhóm Tông Đồ chỉ nghĩ đến Chúa qua lời tông đồ Phê-rô :
“Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những Lời đem
lại sự sống đời đời”
(Ga 6,68).
3. THẢO LUẬN : 1) Người ta thường bị khủng hoảng đức
tin là do những nguyên nhân nào ? 2) Một tín hữu bị khủng hoảng về
đức Tin sẽ biểu lộ qua những thái độ và hành vi nào ? 3) Chúng ta
phải làm gì để giúp một người đang bị khủng hoảng đức Tin sớm lấy
lại đức Tin vào Chúa và Hội Thánh ?
4. SUY NIỆM :
1) Tự do chọn “tin hay không tin” :
Như dân Ít-ra-en xưa, ngày nay mỗi
tín hữu chúng ta cũng có quyền tự do chọn tin hay không tin vào Đức Giê-su
để đức tin có giá trị giúp đón nhận ơn cứu độ của Chúa. Khi chịu phép Thánh
Tẩy, các dự tòng cũng phải công khai chọn thái độ từ bỏ ma quỉ tội lỗi và
tuyên xưng đức tin vào các chân lý đức tin như Hội Thánh dạy, trước khi được
chủ sự đổ nước trên đầu hoặc dìm mình họ trong giếng nước rửa tội để
được Thánh Thần tái sinh làm con Thiên Chúa.
Trong đời sống thường ngày, các tín hữu chúng ta
cũng cần khẳng định đức tin như dân Ít-ra-en xưa đã khẳng định niềm tin vào
Đức Chúa: “Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Đức Chúa, mà tôn thờ các
tà thần của dân ngoại”. Sự chọn lựa tin theo Chúa đòi các tín hữu chúng
ta không ngừng hồi tâm sám hối để thanh luyện đức tin của mình.
2) Cần
dứt khóat chọn tin theo Chúa :
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su cũng đòi Nhóm
Mười Hai Tông đồ phải dứt khoát chọn tin hay không khi đối diện với bí tích Thánh Thể do Người thiết lập:
“Thịt Tôi thật là của ăn và Máu Tôi thật là của uống !”. Khi nghe mầu
nhiệm này, nhiều môn đệ đã phản đối và rút lui không còn đi
theo Người nữa. Riêng ông Phê-rô khi được Thầy hỏi,
đã đại diện Nhóm Mười Hai tông đồ tuyên xưng đức tin: “Bỏ Thầy thì chúng
con biết đến với ai ? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời
đời. Phần chúng con, chúng
con đã tin và nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên
Chúa”. Qua câu này, ông Phê-rô đã mạnh dạn tuyên xưng đức tin dù ông chưa hiểu
rõ nội dung mầu nhiệm bí tích Thánh Thể Thầy vừa mặc khải. Ông tin vì dựa vào Lời
Thầy và vào thế giá của Thầy.
Hôm nay, Chúa Giê-su cũng đòi chúng ta khẳng định lập
trường tin Chúa hay không ? Chúng ta có chọn ở lại với Thầy đang khi nhiều bạn
bè khác bỏ Chúa qua việc không đến nhà thờ dự lễ Chúa Nhật, hành xử theo ý riêng
mình chứ không theo Lời Chúa và lề luật Hội Thánh ? Chúng ta có trung thành chọn
làm điều tốt trong khi đại đa số bạn bè chọn theo lối sống dễ dãi phù hợp với tính
xác thịt và làm theo các đam mê lạc thú bất chính, chọn chối bỏ Chúa trong lý
lịch để hy vọng được hưởng các đặc quyền đặc lợi và địa vị xã hội ? Có lẽ phần
đông chúng ta đã chọn thái độ lim lặng. Phải chăng thái độ đó đồng nghĩa với sự
phản bội của Giu-đa, được Tin Mừng Gio-an cho biết: “Quả thật ngay từ đầu, Đức Giê-su đã biết những kẻ nào
không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người” (Ga 6,64b). Tuy trong thâm tâm Giu-đa đã không tin Thầy và quyết tâm phản
Thầy, nhưng vẫn ở lại Nhóm Mười Hai là để chờ cơ hội ! (x. Ga 13,21-27; Mt
26,14-16).
3) Đức tin vào bí tích Thánh Thể phải dựa trên Lời Chúa :
Khi tuyên xưng đức tin thì không phải ông Phê-rô đã hiểu biết mầu
nhiệm bí tích Thánh Thể, nhưng chỉ vì ông đã tin “Thầy là Đấng Thánh
của Thiên Chúa”, tin Thầy là Đấng quyền năng đã từng nhân bánh ra nhiều cho
dân chúng ăn no; Đã từng đi trên mặt biển và phán một lời là dẹp yên sóng
gió; Đã từng xua trừ ma quỷ ra khỏi nhiều người bị ám; Đã từng đặt tay chữa
lành nhiều bệnh nhân và phán một lời là kẻ chết sống lại… Chính nhờ đức tin
vào quyền năng của Chúa, mà Phê-rô và Nhóm Mười Hai đã tin cả những điều
khó nghe, khó hiểu và khó chấp nhận về bí tích Thánh Thể:“Ai ăn thịt và uống máu Tôi sẽ
được sống muôn đời” (Ga 6,54a).
4) Cần làm gì để tin vào bí tích Thánh Thể ? :
“Đây là mầu nhiệm đức tin”, vượt
trên sự hiểu biết khả giác của lòai người, nên để tin vào bí tích này, mỗi tín
hữu chúng ta cần có ba điều kiện như sau :
- Một là phải lắng
nghe và suy niệm Lời Chúa như tông đồ Phao-lô dạy : “Có đức Tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố Lời Đức Ki-tô”
(Rm 10,17). Do đó, để tin vào mầu nhiệm bí tích Thánh Thể, chúng ta cần lắng
nghe Lời Chúa khi tham dự thánh lễ hoặc dự các buổi họp nhóm học sống Lời Chúa,
rồi còn phải “suy niệm Lời Chúa trong
lòng” noi gương Mẹ Ma-ri-a xưa
(x Lc 2,51).
- Hai là phải xác tín vào
Lời Chúa Giê-su như ông Phê-rô đã thưa với Chúa :“Bỏ Thầy thì chúng con biết
đến với ai ? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời. Phần
chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng : Chính Thầy là Đấng
Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).
- Ba là phải ý thức đức tin là do ơn Chúa ban như lời Đức Giê-su:
“Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha
không ban ơn ấy cho” (Ga 6,65). Do đó, để tin vào
mầu nhiệm Chúa Giê-su hiện diện trong bí tích Thánh Thể, chúng ta cần năng cầu xin Chúa Giê-su ban thêm đức tin cho
mình, như lời cầu của người cha có con bị quỷ ám :"Tôi tin ! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi” (Mc 9,24).
5.
LỜI CẦU :
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Nhiều lần khi xin các ơn phần
xác mà chưa được nhậm lời, con đã nản lòng thất vọng, thể hiện qua việc bỏ
dự lễ Chúa Nhật và không còn tin tưởng cầu xin Chúa nữa, mà chạy đến với
thầy bùa thầy ngải của lương dân. Tin mừng hôm nay cho thấy: Chúa đã ngán
ngẩm trước đức tin vụ lợi của đám đông dân chúng và các môn đệ. Có
lẽ hôm nay Chúa cũng đang ngán ngẩm khi thấy con cũng chỉ biết lo tìm
kiếm lợi lộc tiền bạc vật chất, và dửng dưng trước những ơn ích thiêng
liêng phần hồn. Xin Chúa giúp con thực thi theo Lời Chúa dạy: “Trước hết hãy
tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những
thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. – Đ) XIN CHÚA
NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH -
HHTM