Suy Niệm
Lời Chúa Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm B
XIN ƠN SÁNG MẮT SÁNG LÒNG ĐỂ ĐI THEO CHÚA
I. HỌC
LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 10, 46-52
(46) Đức Giê-su và các môn đệ
đến thành Giêricô. khi Đức Giê-su cùng với các môn đệ và một đám người khá đông
ra khỏi thành Giêricô, thì có một người hành khất mù, tên là Báctimê, con ông
Timê, đang ngồi ở vệ đường. (47) Vừa nghe nói đó là Đức Giê-su Nadarét, anh ta
bắt đầu kêu lên rằng: “Lạy ông Giê-su, Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”
(48) Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi. Nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng:
“Lạy Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”. (49) Đức Giê-su đứng lại và nói:
“Gọi anh ta lại đây!” Người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm đứng dậy, Người
gọi anh đấy!” (50) Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy, mà đến gần Đức
Giê-su. (51) Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh mù đáp: “Thưa Thầy,
xin cho tôi nhìn thấy được”. (52) Người nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã
cứu anh!” Tức khắc anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người
đi.
2. Ý
CHÍNH:
Trên
bước đường đi về Giêrusalem để chịu tử nạn và phục sinh, thì tại thành Giêricô,
Đức Giê-su đã chữa cho một người mù tên là Báctimê, đang ngồi ăn xin bên vệ
đường, vì anh đã tin cậy nơi Người. Qua phép lạ mở mắt người mù này, Người muốn
mở mắt đức tin cho các môn đệ, để họ thấy được ý nghĩa cao cả của sứ mạng cứu
thế mà Người sắp thực hiện tại Giêrusalem là: “Qua đau khổ thập giá để vào
trong vinh quang phục sinh”.
3. CHÚ THÍCH:
- C 46: + thành
Giêricô: Giêricô có nghĩa là “mặt trăng”, một thành ở thung lũng
sông Gio-đan, cách biển Chết 5 cây số và cách Giêrusalem khoảng 25 cây số. Thời Xuất hành, Giêricô là thành
đầu tiên mà con cháu Gia-cóp, dưới sự lãnh đạo của Giosuê tiến chiếm được (x.
Gs 5, 13tt). Dụ ngôn người Samari tốt lành cũng nhắc đến đoạn đường từ
Giêrusalem xuống Giêricô (x. Lc 10, 30). + có một người hành khất mù:
Hành khất là người ăn xin. Đây là một người đói khổ về vật chất, đang cần
được giúp đỡ. Anh ta còn bị mù, tượng trưng cho người đang đi trong tăm tối vì
chưa nhận biết và tin Đức Giê-su. Có thể Đức Giê-su chữa một lúc hai người mù
(x Mt 20, 30), nhưng ở đây Mác-cô chỉ ghi lại một người và nêu rõ tên là
Báctimê. + ở vệ đường: đồng nghĩa với “đầu đường xó chợ”, nói lên
hoàn cảnh bơ vơ không nơi nương tựa của ngươi mù. anh ta tượng trưng cho số
phận đau khổ của “Người nghèo của Đức Giavê”, đối tượng được Đức Giê-su ưu tiên
mời gia nhập vào Nước Trời của Người.
- C 47-48: + Đức Giê-su
Nadarét: Giê-su nghĩa là “Giavê cứu độ”. trong Thánh Kinh có một số
người cũng tên là Giê-su (x.Hc 50, 27; Lc 3,29; Cl 4, 11). Để phân biệt, người
ta thường thêm tên quê hương vào sau tên gọi. Giê-su nói đây chính là Đức Giê-su
quê làng Nadarét. + Con Vua Đavít: Anh mù gọi Đức Giê-su kèm tước
hiệu “Con Vua Đavít” cho thấy nhiều người Do thái đã tin Đức Giê-su là “Đấng
Thiên Sai”, nhưng họ lại đang mong đợi một Đấng Thiên Sai trần thế, đến giải
phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc Rô-ma (x. Mt 22, 42; Ga 7, 42). +
“Xin dủ lòng thương tôi”: Lời cầu xin này nói lên sự khiêm hạ và
lòng tin mạnh mẽ của anh mù vào quyền năng Đức Giê-su. Anh trông cậy Người sẽ
làm cho anh được sáng mắt như ngôn sứ Isaia đã tuyên sấm về sứ mệnh của Đấng
Thiên Sai: “Bấy giờ mắt người mù
mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng
lưỡi người câm sẽ reo hò...” (Is 35, 5-6). + Nhiều
người quát nạt bảo anh im đi: Một số người ở gần anh mù tỏ vẻ bực
tức trước việc anh ta kêu la lớn tiếng. Họ bắt anh mù phải im lặng để họ nghe
được lời Đức Giê-su lúc đó đang vừa đi đường vừa giảng dạy. + Nhưng anh
ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con Vua Đavít! Xin dủ lòng thương tôi”: Vì tin vào tình thương và quyền năng
của Đức Giê-su Thiên Sai, nên anh mù bất chấp mọi rào cản: Người ta càng cấm,
thì anh lại càng kêu la thống thiết hơn: “Lạy Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương
tôi!”.
- C 49-50: + Người ta
gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy! Người gọi anh đấy”: Thái độ
của đám đông đối với anh mù đã thay đổi: Từ khinh thường nạt nộ đến tôn trọng
và nhỏ nhẹ hơn với anh. + Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà
đến gần Đức Giê-su: Áo choàng là một vật thiết thân đối với khách bộ
hành và người ăn xin. Nó thường được dùng làm dù che cơn nắng gắt ban ngày và
làm mền đắp cho ấm ban đêm. Vậy mà khi nghe nói “Người gọi anh đấy”, anh ta
liền vất áo choàng lại, đứng bật dậy mà chạy mau về phía Đức Giê-su, như thể
anh đã được sáng mắt rồi vậy.
- C 51-52: + “Anh muốn
tôi làm gì cho anh?”: Dù đã biết rõ anh mù muốn xin gì rồi, nhưng Đức Giê-su
vẫn tạo cơ hội để anh ta biểu lộ đức tin. + “Xin cho tôi nhìn thấy được”:
Anh mù không xin tiền bạc hay đồ ăn thức uống như mọi khi, mà chỉ xin được
sáng mắt, được nhìn thấy mọi sự như bao người khác. + “Anh hãy đi, lòng
tin của anh đã cứu anh”: Điều kiện để được Đức Giê-su cứu chữa là phải
có đức tin, như khi Người chữa lành cho hai người mù (x. Mt 9, 29), khi chữa người phong cùi (x. Lc 17, 9)...
+ Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người
đi: Anh mù chỉ xin được sáng mắt thể xác, nhưng Đức Giê-su lại ban cho
anh được sáng lòng, sáng cả mắt linh hồn, để anh có đức tin trọn vẹn, nhìn thấy
được con đường Người sắp đi và can đảm bước theo Người đi lên Giêrusalem, trải
qua mầu nhiệm “qua đau khổ vào vinh quang” để sau này được hưởng ơn cứu độ muôn
đời.
4. CÂU HỎI:
1) Thành Giêricô là thành nào? Sách Xuất hành đề cập tới tên thành này
trong trường hợp nào? Đức Giê-su cũng nói tới tên thành này trong dụ ngôn nào?
2) Số người mù được Đức Giê-su chữa lành trong 2 Tin Mừng Mat-thêu và Mác-cô
có giống nhau không? Tại sao?
3) “ngồi ở vệ đường” nói lên hòan cảnh của người mù này lúc đó ra sao?
4) Tên Giê-su nghĩa là gì? Tại sao Đức Giê-su được người mù gọi là Giê-su
Na-da-rét?
5) Qua việc kêu cầu Đức Giê-su với danh hiệu “Con Vua Đa-vít”, người mù
biểu lộ đức tin về Người ra sao? Còn dân Do Thái lại đang trông mong một Đấng
Thiên Sai theo nghĩa nào?
6) Lời kêu xin của người mù cho thấy đức tin của anh vào Đức Giê-su ra sao?
7) Tại sao dân chúng cấm anh mù kêu lớn tiếng? Tại sao anh lại kêu la thống
thiết hơn?
8) Anh mù đã làm gì với chiếc áo chòang thiết thân khi nghe Đức Giê-su cho gọi
anh?
9) Tại sao Đức Giê-su lại hỏi anh mù xin gì, dù Người đã nghe rõ lời kêu
xin của anh?
10) Trong Tin Mừng, Đức Giê-su luôn đòi người ta phải có điều kiện gì để
được Người làm phép lạ?
11) Ngòai việc được sáng mắt thể xác, anh mù còn được Người ban ơn gì về
tinh thần?
II. SỐNG
LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Anh mù liền vất áo choàng
lại, đứng bật dậy mà đến gần Đức Giê-su (Mc 10,50):
2. CÂU CHUYỆN:
1) NĂM ANH MÙ ĐI XEM VOI :
Nhân buổi ế hàng, năm
ông thầy bói ngồi tán chuyện với nhau. Thầy nào cũng phàn nàn không biết hình
thù con voi như thế nào. Chợt nghe người ta nói đang có voi sắp đi ngang qua,
năm thầy chung tiền biếu người quản voi, xin cho voi dừng lại ít phút để cho họ
tìm hiểu về hình thù của nó. Được sự đồng ý của người quản voi, năm thầy bói
liền đến gần để sờ. Thầy thì sờ thấy cái vòi, thầy thì sờ được cái tai, thầy
thì lại sờ được chân, thầy thì sờ thấy cái đuôi. Rồi năm thầy ngồi lại đàm luận
với nhau
Thầy sờ thấy cái vòi liền
nhận xét: Tưởng con voi thế nào, hoá ra nó chỉ như một con đỉa lớn.
Thầy sờ thấy tai cãi
lại: Đâu có ! Nó bè bè giống như một cái quạt nan lớn.
Thầy sờ thấy chân không
đồng ý: Ai bảo? Nó to sừng sững như cây cột đình làng.
Thầy sờ vào thân mình
voi phán: Không đúng. Con voi giống như một cái trống lớn.
Thầy sờ đuôi bảo: Các
thầy đều nói sai cả. Nó giống như một cây chổi xể cùn.
Năm thầy, thầy nào
cũng cho là mình nói đúng và không ai chịu thua ai. Từ đánh võ miệng biến thành
đánh lộn dùng gậy đập nhau loạn xạ khiến cho kẻ thì bị bể đầu, người lại bị sứt
trán.
Người
ta thường hay tranh cãi nhau vì ai cũng nghĩ chỉ có mình đúng, còn người khác đều
sai, đang khi thực ra mỗi người chỉ đúng trong cái nhìn phiến diện của mình. Chính
thái độ cố chấp đã khiến năm anh thầy bói mù tranh cãi đánh lộn nhau để bảo vệ
cho nhận thức sai trái của mình. Điều quan trọng là mỗi người cần khiêm tốn thừa
nhận mặt hạn chế của mình để sẵn sàng tiếp thu sự góp ý của người khác. Có như
vậy chúng ta mới hy vọng đạt tới được sự thật toàn vẹn.
2) TÌM ĐƯỢC MẸ RUỘT NHỜ CON MẮT TRÁI TIM:
Vào
một buổi chiều năm 1945, tại nhà ga Verona nước Italia, có khá đông dân chúng
đang tập trung tại sân ga và náo nức chờ đón một số binh lính là người thân của
họ trở về từ các trại tập trung của Đức Quốc Xã. Lúc đó, một người lính trẻ bị
mù hai mắt cũng đang lần mò từng bước trên sân ga. Khi tiến gần đến chỗ một phụ
nữ lớn tuổi đang đứng chung với mấy người thân trong gia đình, đột nhiên anh
lính mù dừng lại rồi kêu to lên: “Mẹ!”, và rồi hai mẹ con ôm chầm lấy nhau khóc
nức nở. Một lúc sau, khi phát hiện ra cặp mắt của con trai đã bị mù hòan tòan,
bà mẹ liền hỏi: “Con ơi, mắt con đã bị mù như thế mà sao lúc nãy con lại nhìn
thấy mẹ giữa bao nhiêu người khác và kêu lên như vậy?”. Anh lính trẻ liền đáp:
“Thưa mẹ, tuy mắt con không thể nhìn thấy mặt mẹ như trước, nhưng chính trái
tim đã mách bảo con là mẹ cũng đang có mặt tại đây và đang chờ đón con. Khi từ
trên xe lửa bước xuống sân ga, con cứ đi theo sự mách bảo của trái tim và đến
lúc tự nhiên linh tính mách bảo rằng mẹ đang ở rất gần bên con, thì tự nhiên
con buột miệng la to lên “Mẹ!” và quả thật con đã gặp được mẹ như mẹ đã thấy
đó”.
3) AI MỚI BỊ MÙ ?
Một anh mù kia đến nhà
bạn chơi. Lâu rồi không gặp nên hai người nói chuyện lâu giờ quên cả thời gian.
Khi trời đã tối mịt thì anh mù mới từ giã bạn ra về. Thấy đường làng tối thui,
người bạn liền bảo: “Này anh bạn, hãy để tôi thắp cho anh một cây đèn dầu, vì
bên ngoài trời đã tối quá rồi”. Anh mù nghĩ bạn muốn trêu đùa nên trả lời: “Anh
nói gì vậy? Tôi bị mù thì cần gì đến cây đèn sáng mà anh định trao cho tôi ?”.
Anh bạn kia liền nói: “Ý tôi là anh nên cầm đèn cháy sáng để người khác nhìn
thấy ánh đèn sẽ không đụng vào anh”. Anh mù nghe ra liền cám ơn bạn và vui vẻ
cầm đèn ra về. Nhưng mới đi được một đoạn đường thì bỗng anh mù bị một người đi
ngược chiều đụng phải và bị té ngã. Quá tức giận, anh lồm cồm bò dậy chửi đổng:
“Mù hay sao mà không thấy cây đèn ta đang cầm trên tay?”. Người kia liền đáp:
“Mi mới bị mù thì có! Cây đèn trên tay mi đã bị tắt lâu rồi, mà sao mi lại dám trách
mắng ta ?”.
4) VỊ ÂN NHÂN ĐÃ PHÁT MINH RA
CHỮ NỔI CHO NGƯỜI MÙ :
LOUIS BRAILLE (1809 -
1852) sinh ra tại Coupvray, thị trấn nhỏ miền Đông nước Pháp. Ông được mệnh
danh là “Người đem ánh sáng cho thế giới bóng tối” vì đã phát minh ra bảng hệ
thống chữ nổi dành cho người mù khi ông mới 15 tuổi. Phát minh của ông được ví
như một cuộc cách mạng làm thay đổi sâu sắc cuộc sống của những người khiếm thị
trên toàn thế giới.
Năm 3 tuổi, Braille đã
bị mù cả hai mắt do bị nhiễm trùng sau một tai nạn. Cha mẹ đã cho Braille vào
học ở trường dành cho người khiếm thị tại Paris. Thời điểm đó, những đứa
trẻ mù được học đọc các ký tự in nổi nhưng không thể viết ra giấy các chữ nổi được.
Nhận ra mặt hạn chế của hệ thống chữ này, dù mới được 12 tuổi nhưng Braille đã
nghĩ ra một loại chữ viết mới mà người mù có thể cảm nhận được bằng ngón tay, gọi
là chữ nổi Braille. Braille đã hoàn thiện nó khi được tròn 15 tuổi. Anh đã
cải tiến hệ thống chữ cái 12 chấm xuống còn 6 chấm nhỏ gọn trên trang giấy. Từ
6 chấm này người ta có thể viết được tất cả các chữ cái, kể cả các ký
hiệu trong toán học và nhạc lý. Năm 1829, Braille đã xuất bản
cuốn sách chữ nổi đầu tiên mà đến nay vẫn đang tiếp tục được chính thức sử dụng
dạy học trong các trường khiếm thị.
Về sau Louis Braille đã
bị mắc bệnh lao phổi và qua đời khi mới được 43 tuổi. Phát minh của ông đã được
cả thế giới thừa nhận là một phương tiện không thể thay thế trong lĩnh vực giáo
dục người khiếm thị. Để tri ân ông, người ta đã đặt tượng ông trong Điện
Panthéon, nơi muôn đời ghi ơn các bậc danh nhân công thần của nước Pháp và đã lấy
tên ông đặt cho loại chữ nổi này.
3. THẢO LUẬN:
Khi gặp phải tai nạn hay điều rủi ro trái ý, bạn cần làm gì để đi theo con
đường “Qua đau khổ vào trong vinh quang” của Đức Giê-su?
4. SUY NIỆM:
1) Anh mù gặp Chúa đã
được sáng mắt sáng lòng:
- Tin
mừng hôm nay ghi nhận câu chuyện về người mù thành Giê-ri-cô đã chạy đến với
Đức Giê-su không phải nhờ con mắt thể xác nhưng nhờ con mắt đức tin. Tuy mắt
anh không nhìn thấy Đức Giê-su, nhưng chính con mắt đức tin đã mách bảo và dẫn
đường để anh chạy đến với Người. Trước đó anh đã nghe đồn Đức Giê-su là Đấng
Thiên Sai và ao ước gặp Người để xin Người chữa anh khỏi mù. Vì thế khi nghe
thấy một đám đông đang đến gần chỗ anh đang ngồi ăn xin bên vệ đường và anh
nghe có tiếng của một ráp-bi đang giảng trên đường, thì anh liền dò hỏi và được
biết vị tôn sư kia chinh là Đức Giê-su Na-da-rét, người mà anh đã nghe danh và
mong được gặp.
- Bấy
giờ anh mù liền kêu to: “Lạy ông Giê-su, Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương
tôi!”. Dù bị nhiều người đi trước cấm la to, nhưng anh mù lại càng kêu to hơn với
hy vọng lời kêu xin của anh thấu tới Đức Giê-su. Quả thật Đức Giê-su đã nghe và
cho gọi anh đến gần. Nghe vậy anh mù liền quăng chiếc áo choàng đang khoác trên
mình xuống đất, nhảy chồm dậy để chạy mau đến gặp Người giống như anh chưa bao
giờ bị mù. Sau khi biết được lòng tin và mong ước của anh mù, Đức Giê-su liền
tuyên bố: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!”. Lập tức anh mù được sáng
mắt để thấy được đường đi, mà anh còn được sáng lòng để tin Đức Giê-su chính là
Đấng Thiên Sai và cùng đi theo Người lên Giê-ru-sa-lem.
2) Xin Chúa mở con mắt đức tin cho chúng ta:
- Chúa Giê-su đã chữa
lành bệnh mù thể xác, và Người cũng chữa lành bệnh mù tâm hồn. Chính sự mù tối
tâm hồn này còn tác hại hơn bệnh mù ngoài thể xác. Một người mù tâm hồn là
người không chấp nhận sự thật, cố tình không muốn nhận tình thương và sự giúp
đỡ của tha nhân. Mỗi người chúng ta hãy tự vấn lương tâm mỗi buổi tối trước khi
đi ngủ: « Hiện giờ tôi có bị mù tâm hồn không? » Hãy cầu xin Chúa ban
ơn chữa lành như sau: “Lạy Chúa. Xin hãy mở mắt linh hồn con ra để con thấy
những kỳ công Chúa làm và dâng lời ngợi khen chúc tụng Chúa. Xin cho con
luôn biết nghĩ đến người khác để sẵn
sàng cảm thông và chia sẻ niềm vui nỗi buồn với họ ».
- Trong giao tiếp xã
hội, thay vì chỉ nhìn các khuyết điểm lỗi lầm của kẻ khác để chỉ trích lên án,
chúng ta hãy nhìn vào mặt tích cực của họ. Cần ý thức rằng: Dù một kẻ tội lỗi
xấu xa đến đâu thì trong lòng họ vẫn còn ít nhất 5 phần trăm tốt. Điều chúng ta
cần làm là phải tìm ra 5 phần trăm tốt đó và nhân rộng ra để giúp họ loại trừ
95 phần trăm điều xấu tội lỗi còn lại trong mình.
3) Đừng ngăn cản tha
nhân đến với Chúa:
- Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy thái độ không phù hợp của đám đông đi
trước Đức Giê-su, khi họ quát
nạt cấm anh mù không được la lớn tiếng. Họ giống
như các đầu mục Do thái là rào cản không cho dân chúng đến được với Đức Giê-su,
nên đã bị Người quở trách: "Khốn cho các ngươi, hỡi
những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đóng cửa Nước Trời không cho
người ta vào: vì các ngươi không vào, mà kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để
cho vào” (Mt 23, 13).
- Chúng
ta cũng sẽ trở thành rào cản, khi ngăn chặn các tội
nhân đến với Chúa bằng những câu nói nghi kỵ và khinh dể … Chẳng hạn: Khi thấy
một người đã từng nghiện rượu, cờ bạc, hút sách, trộm cắp muốn hoàn lương… Lẽ
ra phải động viên khích lệ họ, thì nhiều người trong chúng ta đã nói ra những
lời nghi ngờ thiện chí muốn hoàn lương của họ. Ngoài ra, chúng ta cũng sẽ trở
thành rào cản khi sống bê tha gian ác hơn người lương chung quanh. Nhiều anh em
đang có thiện cảm và muốn theo đạo đã phải khựng lại khi chứng kiến thái độ độc
ác bóc lột người nghèo của người công giáo, hoặc khi thấy một số mục tử bị đưa
ra tòa án đời xét xử về những tội xấu xa…
4) Làm gì để được sáng
mắt sáng lòng mà đi theo Chúa? :
- Mỗi
ngày chúng ta hãy xin Chúa mở mắt linh hồn để nhìn thấy Chúa đang hiện diện
trong những kỳ công trong vũ trụ thiên nhiên, nơi bản thân mình và nơi tha
nhân… rồi dâng lời ngợi khen tạ ơn Thiên Chúa.
- Mỗi
khi gặp tình huống khó giải quyết, mà không biết nên làm gì cho đúng, chúng ta
hãy lắng nghe Lời Chúa trong Kinh Thánh, tìm hiểu ý Chúa muốn và mau mắn xin
vâng. Khi gặp rủi ro thất bại, chúng ta hãy tín thác cậy trông vào Chúa quan
phòng và sẵn sàng chấp nhận con đường “Qua đau khổ vào trong vinh quang” của
Chúa khi xưa.
-
Trong mọi giây phút cuộc đời, chúng ta hãy biết khiêm tốn chạy đến xin Chúa Giê-su
mở mắt đức tin để thấy được sự thật toàn vẹn. Người sẽ dẫn đường chỉ lối cho
chúng ta đi theo con đường yêu thương phục vụ của Người, giúp chúng ta sẵn sàng
bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Người. Chấp nhận cùng chết với
Chúa hôm nay để được phục sinh với Người mai sau.
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy
Chúa Giê-su.
Xin
cho con nhìn thấy Chúa đang hiện diện trong lòng con, để con biết năng tâm sự
với Chúa.
Xin mở
mắt đức tin giúp con nhìn thấy Chúa trong thiên nhiên, để con dâng lời ngợi
khen Chúa.
Xin
cho con nhìn thấy Chúa hiện diện trong thánh lễ và nơi Nhà Tạm để con năng đến dự
lễ để nghe Lời Chúa giáo huấn và được kết hiệp mật thiết với Chúa khi lên rước
lễ.
Xin
cho con biết mở mắt đức tin để nhìn thấy Chúa đang hiện thân nơi những người
nghèo khổ, tuyệt vọng và bị bỏ rơi… để con động viên an ủi và ân cần phục vụ họ
như phục vụ chính Chúa…
Nhờ
đó con sẽ nên chứng nhân cho tình thương của Chúa giữa lòng xã hội Việt Nam hôm
nay.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ)
XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM