Suy
Niệm Lời Chúa Chúa NhậtTuần XIV Thường Niên Năm B
PHẢI TRÁNH
ÓC THÀNH KIẾN ĐỂ ĐƯỢC ƠN CỨU ĐỘ
I. HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG : Mc 6, 1-6
(1) Đức Giê-su ra khỏi đó, và đến nơi quê quán của
Người, có các môn đệ đi theo. (2) Đến ngày Sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy
trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: “Bởi đâu ông ta
được như thế ? Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao ? Ông ta làm
được những phép lạ như thế nghĩa là gì ? (3) Ông ta không phải là bác thợ, con
bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Gio-xê, Giu-đa và Si-mon sao ? Chị
em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ?” Và họ vấp ngã vì
Người. (4) Đức Giê-su bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính
quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà
thôi”. (5) Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó. Người chỉ đặt tay
trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. (6) Người lấy làm lạ vì họ không tin.
2. Ý CHÍNH : Sau một thời gian đi
khắp nơi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Đức Giê-su đã về thăm quê hương là làng
Na-da-rét. Dân làng ngạc nhiên trước lời giảng khôn ngoan và thán phục trước
các phép lạ Người làm ở khắp nơi. Nhưng họ lại đặt nghi vấn về thân thế dòng
dõi của Người và không tin Người có thể là Đấng Thiên Sai. vì họ cứng lòng tin
nên Đức Giê-su đã không làm nhiều phép lạ tại đó.
3. CHÚ THÍCH :
-C 1-2 : + Đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo : Đức Giê-su trở
về quê hương Na-da-rét của Người (x. Mt 2, 23). Làng này không mấy nổi danh,
như ông Na-tha-na-en đã nhận xét : “Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được ?”
(x. Ga 1, 46). Đức Giê-su về Na-da-rét để thăm thân nhân, và cũng để thi hành
sứ mạng rao giảng Tin Mừng Nước Trời ở đó nữa. + Đến ngày Sa-bát, Người
bắt đầu giảng dạy trong hội đường : Tại các hội đường Do Thái, dân làng
có thói quen tập trung vào ngày Sa-bát để nghe các kinh sư đọc và giải thích
Kinh Thánh. Trong các buổi cầu nguyện này, người ta cũng thường hay mời các
kinh sư hay các bậc vị vọng đến giảng dạy. Đức Giê-su đã nổi tiếng khắp nơi nên
cũng được mời lên bục giảng. Dân làng ngạc nhiên về giáo lý của Người, nhất là
khi nghe biết các phép lạ Người đã từng làm tại thành Ca-phác-na-um gần đó.
-C 3 : + Là bác thợ :
Nhưng rồi dân làng Na-da-rét lại tỏ vẻ khinh thường nghề thợ mộc mà Đức Giê-su
đã học nơi cha nuôi là Giô-xép. + Con bà Ma-ri-a : Họ không nhắc
đến Giô-xép (hay Giu-se), có lẽ vì ông đã qua đời từ lâu, mà chỉ nhắc đến bà
Ma-ri-a là một phụ nữ bình thường. + Anh em của các ông Gia-cô-bê,
Giô-xép, Giu-đa và Si-mon sao ? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với
chúng ta sao ? : Anh chị em được nêu tên ở đây chứng minh gia thế Đức
Giê-su không có gì đặc biệt. Tuy nhiên, có người lại dựa vào câu này để phủ
nhận đức đồng trinh trọn đời của Đức Ma-ri-a, vì theo họ: ngoài Đức Giê-su ra,
bà còn sinh thêm nhiều con trai con gái khác. Thực ra, anh chị em nói đây chỉ
là anh chị em bà con mà thôi (x. St 13, 8; 14, 16). Chẳng hạn: Gia-cô-bê và
Giô-xép là con của bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát (x. Mt 27, 56; Ga 19,25), Giu-đa
là con của ông Gia-cô-bê (x. Lc 6, 16). Ngay từ ban đầu, Giáo Hội Công giáo
luôn khẳng định: Đức Giê-su là “con trai đầu lòng” (x. Lc 2, 7) và “Người con duy nhất” của Đức Ma-ri-a. Cũng vì
thế mà khi sắp tắt thở trên thập giá Đức Giê-su đã trối Mẹ Người cho môn đệ
Gio-an, và từ giờ đó Gio-an đã đón bà về nhà mà phụng dưỡng (x. Ga 19, 27).
Cuối cùng, nếu những người này thực là con của Đức Ma-ri-a, thì dân làng đã
phải nói là “các em trai của ông ta”, “các em gái của ông ta”, thay vì nói từ
chung chung “anh em ông” và “chị em ông”. + Và họ vấp ngã vì Người :
Theo Thánh Phao-lô và thánh Phê-rô thì: Đối với những kẻ kiêu căng cứng lòng
tin, thì Đức Giê-su đã trở nên viên đá chướng ngại (x Rm 9, 33; 1 Pr 2, 7-8).
Tin Mừng Lu-ca cũng viết “viên đá bị loại ra” là Đức Giê-su, đã trở nên “viên
đá góc”. Phàm ai ngã xuống đá này, kẻ ấy sẽ tan xương; Đá này rơi trúng ai, sẽ
làm người ấy nát thịt” (Lc 20, 18).
-C 4-6 : + “Ngôn sứ có bị rẻ rúng…” : Câu này tương tự như câu : “Bụt nhà không thiêng !”. Dân làng Na-da-rét
đã vấp ngã trước những yếu tố nhân loại của Đức Giê-su như : Làm nghề thợ mộc là
nghề tay chân hèn kém. Các thân nhân của Người cũng chỉ là người bình dân… Đó
là các chướng ngại khiến dân làng Na-da-rét không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên
Sai. + Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó : Trước khi
làm một phép lạ nào, Đức Giê-su luôn đòi người ta phải có đức tin. Chẳng hạn:
Người bảo bệnh nhân: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mc 5, 34);
Người nói với ông Gia-ia: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5, 36), hay nói
với người mù ở Giê-ri-cô: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh !” (Mc 10, 52).
Tại làng Na-da-rét, vì không tin, nên dân làng đã không được Đức Giê-su ban ơn
là đã không làm các phép lạ như ở những nơi khác.
4.CÂU HỎI : 1) Đức Giê-su về thăm quê hương Na-da-rét nhằm mục đích gì
? 2) Dân làng tập trung tại hội đường vào các ngày Sa-bát để làm gì ? 3) Dân
làng Na-da-rét đánh giá thế nào về Đức Giê-su sau khi nghe Người giảng dạy ? 4)
Dân làng có thành kiến thế nào về nghề thợ mộc và về các thân nhân tầm thường
của Đức Giê-su ? 5) Phải chăng Đức Ma-ri-a đã không trọn đời đồng trinh, vì
ngòai Đức Giê-su, Tin Mừng hôm nay còn kể ra tên nhiều anh em và chị em khác
của Người ? 6) Dân làng Na-da-rét đã dựa vào đâu để không tin Đức Giê-su là
Đấng Thiên Sai ? 7) Tại sao Đức Giê-su không làm nhiều phép lạ tại Na-da-rét quê
hương Người ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Họ nói: “Nào ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a
sao ?” (Mc 6, 3).
2. CÂU CHUYỆN :
1) CẦN LOẠI BỎ ÓC
THÀNH KIẾN VỀ NGƯỜI KHÁC:
Vào
năm 1958, sau khi Đức Giáo Hoàng Piô XII qua đời, giới truyền thông báo chí đã mô
tả cái chết của ngài như một ngôi sao sáng chói đã lịm tắt, vì ngài xuất thân
từ một gia đình quý tộc, hấp thụ được một nền văn học uyên thâm và đã để lại nhiều
công trình lớn lao cho Hội Thánh.
Cơ
Mật Viện đã bầu Tân Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII lên kế vị. Vị Giáo Hoàng này
xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, với hình dáng bên ngoài mập mạp, quê
mùa, chất phát. Người ta bảo nhau: Đây chỉ là vị Giáo Hoàng chuyển tiếp cho một
vị Giáo Hoàng khác có tầm cỡ như vị tiền nhiệm. Nhưng có ngờ đâu con người
khiêm tốn, bình dân, giản dị và vui tươi ấy lại có sức thu hút mọi người. Nhất
là ngài đã có công triệu tập Cộng đồng Vatican II và ngài đã trở thành một
“siêu sao” thời đại, trổi vượt hơn các vị giáo hoàng tiền nhiệm.
Câu chuyên trên cho thấy: Chúng ta đừng đánh giá tha nhân theo thành
kiến, như dân làng Na-da-rét xưa đã đánh giá Đức Giê-su: “Na-da-rét nào có cái
chi hay!”. Thế mà Đức Giê-su làng Na-da-rét ấy lại chính là Đấng Thiên Sai muôn
dân trông đợi.
2) BỤT NHÀ KHÔNG THIÊNG:
TA-GO-RE
(1861-1941), một đại thi hào của Ấn Độ, đã đoạt giải No-bel về văn chương năm
1913 Ông có tài làm thơ ngay từ thuở niên thiếu. Khi ấy thỉnh thoảng Ta-go-re đã
làm được một bài thơ và gửi về tòa soạn một tờ báo do thân phụ ông phụ trách
biên tập. Khi thấy bài thơ gửi đến có ký tên tác giả là con của mình, ông bố
chẳng thèm đọc một dòng mà quẳng ngay vào sọt rác, vì ông cho rằng con ông chỉ
là một đứa trẻ thì biết gì về thi ca !
Khi
hiểu rõ lý do tại sao bài mình gửi lại không được đăng lên báo, Ta-go-re liền
chép lại những bài thơ mà cậu đã gửi về tòa soạn trước đó, nhưng lần này cậu đã
lấy một bút hiệu khác rồi gửi trở lại toà soạn. Lần nầy, thân phụ của Ta-go-re
đọc và nhận thấy đây là những bài thơ rất có giá trị, nên ông đã cho đăng ngay
lên báo mà không biết đó là những bài thơ của cậu con trai mà trước đó ông đã
nhiều lần quẳng vào sọt rác.
Đúng như người ta thường nói : "Bụt nhà không
thiêng", hay như lời Chúa Giê-su : "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng
chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia
đình mình mà thôi" (Mc 6, 4).
3) TAI HẠI
CỦA ÓC THÀNH KIẾN:
Có
một gánh xiếc đi lưu diễn tới vùng quê và đóng trại tại một khu rừng gần một
ngôi làng. Vào một buổi tối trước giờ gánh xiếc trình diễn, bỗng một ngọn lửa
bùng lên tại một chiếc lều chứa trang cụ của gánh xiếc. Ông giám đốc vừa chỉ
huy việc dập lửa vừa sai một anh hề, lúc đó mới hóa trang chuẩn bị cho buổi
trình diễn, đi vào làng gần bên để yêu cầu được giúp đỡ dập lửa. Vì nếu ngọn lửa cháy lan qua khu rừng thì ngôi làng cũng có nguy cơ bị
hỏa hoạn.
Anh
hề vội vã chạy nhanh vào làng. Anh đánh kẻng báo động yêu cầu dân làng mau đến
rạp xiếc giúp dập lửa. Nhưng dân làng lại nghĩ đó là một cách quảng cáo lôi kéo
người đến xem xiếc. Anh càng cố làm nói cho họ biết thực sự có hỏa hoạn, thì họ
lại càng cười và cho là anh khéo diễn trò. Sau cùng lửa đã cháy lan nhanh đến
ngôi làng và thiêu rụi tất cả.
Lý do chính mà dân làng không tin lời cảnh báo là do họ nghĩ người đưa
tin chỉ là một anh hề có nhiêm vụ chọc cười của gánh xiếc, khiến họ không cần
biết sự thật anh hề muốn nói. Cũng có một sự tương đồng giữa câu chuyện nói
trên với câu chuyện Đức Giêsu về thăm làng quê Na-da-rét trong Tin Mừng. Dân
làng tuy thán phục lời giảng của Đức Giê-su, nhưng lại không tin Người là Đấng
Thiên Sai, vì tưởng đã biết rõ về gia thế bình thường của Người.
4) CHINH PHỤC LÒNG NGƯỜI BẰNG LÒNG BÁC ÁI
Vào
năm 1960, một cuộc bách hại đạo Công Giáo bùng lên tại nước Su-đăng bên Phi
Châu. Một sinh viên Công giáo da đen tên là TA-BAN đã bỏ nhà chạy sang nước
láng giềng U-gan-đa lánh nạn. Trong thời gian ở đây, Ta-ban đã được nhận vào
chủng viện và 7 năm sau, anh được thụ phong linh mục. Khi tình hình ở Su Đăng
lắng dịu, tân linh mục Ta-ban quyết định trở lại quê nhà để thi hành sứ vụ linh
mục của mình. Cha được Bề trên bổ nhiệm coi sóc một giáo xứ vùng Pa-lo-ta-ka.
Tuy nhiên, giáo dân ở đây lại hoài nghi về chức linh mục của cha như lời cha
thuật lại: “Dân chúng ngờ vực nhìn tôi và nói: “Này anh bạn da đen kia! Anh nói
cái gì vậy? Anh mà là Linh mục ư? Thật là khó tin!”.
Thực
ra trước đây, tại Su Đăng chưa bao giờ xuất hiện một linh mục nào người da đen
cả. Giáo xứ luôn được các linh mục thừa sai người da trắng đến chăm sóc và đã
chia sẻ cho họ nhiều thực phẩm, quần áo và thuốc men. Còn bây giờ cha Ta-ban
lại là một người da đen nghèo khó giống như họ, nên ngài không có gì phân phát
như các linh mục da trắng kia. Tình hình lại càng phức tạp thêm, khi cha Ta-ban
bắt đầu canh tân phụng vụ thánh lễ theo đường hướng công đồng Va-ti-can II.
Giáo dân xầm xì với nhau: “Ông linh mục da đen này còn bày đặt làm lễ bằng
tiếng bản xứ thay vì bằng tiếng la tinh. Chắc ông ta không rành tiếng la tinh
nên mới làm như vậy! Không biết ông ta là linh mục thật hay giả?”. Phải mất 10
năm, sau bao nhiêu vất vả phục vụ giáo xứ, chịu đựng bao nhiêu sự miệt thị và
những lời dè bỉu khinh dể, cuối cùng cha Ta-ban mới được giáo dân thừa nhận là
Cha Sở của họ.
3. THẢO LUẬN : Trong cuộc sống, các tín hữu chúng ta cần ứng xử thế nào
trước thái độ khinh thường hay những lời khích bác của những kẻ ác cảm với đạo
Công giáo?
4. SUY NIỆM :
1)"Ông ta không phải là bác thợ sao?":
Đức Giê-su chỉ là bác thợ mộc trong làng, sống bằng đôi tay lao động vất
vả giống như bao người khác. Rồi bà Ma-ri-a mẹ Người và các anh chị em của
Người cũng là những láng giềng thân quen của dân làng. Những điều này đã khiến dân
làng vấp phạm, không tin Đức Giê-su là một Ngôn Sứ, lại càng không tin Người là
Đấng Thiên Sai. Thời Giáo hội sơ khai, cũng có một nhân vật tên là Xen-xút
(Celsus) rất thù ghét đạo, đã có lần chế diễu các Ki-tô hữu như sau: “Giê-su
Đấng sáng lập đạo của các người chỉ là một gã thợ mộc dốt nát bần hàn, xuất
thân từ làng Na-da-rét tầm thường! Thật khó mà chấp nhận được một Đấng Cứu Thế
lại xuất thân từ một xưởng gỗ nhỏ bé, phải vất vả kiếm sống bằng đôi bàn tay
lao động hằng ngày như thế !”
Chúng ta
thường nghĩ rằng: Thiên Chúa toàn năng có thể làm được mọi sự. Nhưng Tin Mừng
hôm nay cho thấy Đức Giê-su là Con Thiên Chúa lại phải chịu bó tay trước sự
cứng lòng của con người. Con người có thể dùng sự tự do Chúa ban để từ chối ơn
cứu độ của Chúa, như dân làng Na-da-rét xưa do thành kiến đã không tin Đức
Giê-su là Đấng Thiên Sai và không thèm đón nhận ơn cứu độ do Người mang lại.
2) Người đã không thể
làm được phép lạ nào tại đó (Mc 6, 5):
Phép lạ là món quà đặc biệt Chúa ban cho loài người, nhưng
người ta chỉ có thể đón nhận được phép lạ khi có đức tin. Biết bao điều lạ lùng
Thiên Chúa muốn thực hiện cho loài người nhưng họ đã từ chối, giống như các chủ
quán ở Be-lem năm xưa đã xua đuổi Đấng Cứu Thế giáng sinh ra khỏi nhà trọ của
họ như Tin Mừng đã ghi nhận: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu
đón nhận” (Ga 1,11). Thực vậy:
Đức Giê-su đến mặc khải Thiên Chúa là Cha yêu thương và Người là Con Thiên Chúa
thì dân Do thái đã kết án Người là kẻ phạm thượng, là kẻ bị quỷ ám và điên
khùng. Người đến đem bình an, chân lý và thiết lập Nước Trời thì lại bị họ tố
là xách động quần chúng và kẻ cầm đầu bọn phản loạn. Cuối cùng, các đầu mục dân
Do thái đã ra tay bắt bớ và lên án tử hình cho Người, rồi họ còn làm áp lực đòi
Tổng Trấn Phi-la-tô phải kết án tử hình thập giá cho Người.
Ngoài thành kiến thì sự cứng lòng là nguyên nhân khiến
người ta cố chấp không muốn nhìn, không muốn nghe, không muốn tin… như Tin Mừng
nói về sự cứng lòng tin của dân Do thái: “Thế
là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ I-sai-a, rằng: Các ngươi có
lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; vì lòng dân này
đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe,
và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành” (Mt 13, 13-15).
3) Và họ vấp ngã vì Người:
Vì các người đồng hương biết rõ về gia cảnh của Đức Giê-su: Người
chỉ là con bác thợ mộc Giu-se và mẹ và anh em bà con của Người cũng đang chung
sống giữa họ. Do đầu óc thủ cựu đầy thành kiến nên họ đã không nhận ra Thiên
tính nơi Đức Giê-su, dù họ có thán phục về tài ăn nói lưu loát và về sự hiểu
biết Kinh Thánh của Người. Một số người trong bọn họ cũng đã được chứng kiến
nhiều phép lạ Đức Giê-su đã làm ở thành Ca-phác-na-um và các nơi khác để cứu chữa
nhiều bệnh nhân, xua trừ quỷ ám, phục sinh kẻ chết... Nhưng do kiêu ngạo và cố
chấp, dân làng Na-da-rét đã không tin Đức Giê-su la Đấng Thiên Sai. Theo họ Đấng
Thiên Sai không thể có lối sống nghèo khó giản dị, không thể có cha mẹ nghèo
hèn như Đức Giê-su, nên họ đã không tin Người. Chính thành
kiến đã là một trở ngại cho cuộc tiếp xúc giữa Đức Giêsu và người đồng hương.
Theo họ thì Đấng Thiên Sai phải là một nhà lãnh đạo chính trị lỗi lạ, tài ba,
một vị tướng lãnh cầm quân đánh giặc bách chiến bách thắng, hầu đưa dân tộc Do
Thái lên làm bá chủ hoàn cầu. Khi nhận ra Đức Giêsu không thích hợp với với
quan niệm của họ về Đấng Thiên Sai như vậy, thì họ đã không chấp nhận Người.
4) “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình”:
Tiên tri hay ngôn sứ là người được Thiên Chúa soi sáng và
sai đến nói cho người ta nhân danh Thiên Chúa, để truyền đạt các mệnh lệnh của
Ngài cho họ. Kết quả là: “hoặc họ nghe, hoặc họ không nghe” (Ez 2, 5). Thậm
chí, lắm khi họ còn đe dọa mạng sống của các ngôn sứ, nhất là khi các ông tuyên
sấm cáo trách tội lỗi của tầng lớp vua quan. Thánh Kinh đã ghi lại lời ngôn sứ
Na-than tố cáo tội ngoại tình, giết chồng, cướp vợ của vua Đavít; hay ngôn sứ Elia,
dám nói thẳng với vua A-kháp việc ông vua này đã giết và chiếm đoạt tài sản của
Na-bót cách bất công... Kết quả là các ngôn sứ đã bị người đời hận thù giết
hại. Hôm nay chính Đức Giê-su cũng bị các người đồng hương Na-da-rét chối bỏ
vai trò của Người, nên Người đã phải thốt lên: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê
hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6, 4). Dù bị khinh thường, nhưng Đức Giê-su vẫn luôn chu
toàn sứ vụ như Tin Mừng thuật lại: “Người đã đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ”. Rồi Người đi sang các làng khác mà rao giảng Tin Mừng.
Để có đức tin, chúng ta phải biết mở rộng tâm hồn và phải tránh thái độ
thành kiến, thói xấu ganh tị là nguyên nhân cản lối Chúa đi vào nhà linh hồn của
ta. Nếu để thành kiến và thói ganh tị lấn lướt, chúng ta sẽ khó lòng nhìn thấy các
ưu điểm và khả năng của tha nhân. Nếu ta chỉ dựa trên bằng cấp, sự nghiệp, chức
quyền và gia cảnh mà xét đoán hoặc đánh giá một người là chúng ta đã để cho
thành kiến điều khiển ta. Thực ra, giá trị của lời nói hay việc làm của một
người không tuỳ thuộc vào họ có bằng cấp cao, có sự nghiệp lớn, có gia cảnh giàu
có. Nếu ta mới chỉ nghe một vài lời nói không hay, hoặc nhìn thấy một vài
khuyết điểm của một người để vội đánh giá không tốt về họ, thì đó chẳng phải là
ta đã tỏ ra hẹp hòi và xét đoán hồ đồ sao? Trong đạo, nếu ta chỉ nghe vị chủ tế
giảng không lọt tai, mà ta đã vội đánh giá vị đó không tốt và bỏ đến nhà thờ, thì
chẳng phải là ta đã có lối ứng xử đầy tà tâm và thành kiến đó sao?
5.LỜI CẦU :
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúa vốn là
nhà giảng thuyết tài năng, thế mà Chúa cũng đành chịu thất bại trước sự cứng lòng
tin của những người đồng hương Na-da-rét. Nhiều lần chúng con cũng phải bị thất
bại khi bị anh em lương dân từ chối không tin và có khi còn thốt ra những lời
xúc phạm đến Chúa và Hội Thánh… Xin ban cho chúng con ơn kiên nhẫn chịu đựng
những khó khăn gặp phải trên đường rao giảng Tin Mừng. Cho chúng con biết tạ ơn
Chúa khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại. Xin cho
chúng con biết không ngừng tạ ơn Chúa vì biết rằng: “Thất bại là mẹ thành công”,
để noi gương Chúa khi xưa cũng đã từng chịu thất bại trước sự cứng tin của
người đồng hương. Khi ấy Chúa đã không nản lòng thối lui, mà kiên trì đi con
đường “qua đau khổ vào vinh quang” theo ý Chúa Cha, sẵn sàng chấp nhận chịu
chết và sống lại, hầu ban ơn cứu độ cho loài người chúng con.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. -Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM
ĐAN VINH - HHTM