Suy Niệm Lời Chúa Thứ Năm Tuần VI Thường
Niên
«Còn anh em,
anh em nói Thầy là ai?»
Lời Chúa: Mc 8, 27-35
27 Đức Giê-su và các môn đệ của
Người đi tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp-phê. Dọc đường, Người hỏi các
môn đệ: "Người ta nói Thầy là ai? "28 Các ông đáp:
"Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác
lại cho là một ngôn sứ nào đó."29 Người lại hỏi các ông:
"Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? " Ông Phê-rô trả lời: "Thầy
là Đấng Ki-tô."30 Đức Giê-su liền cấm ngặt các ông không được
nói với ai về Người.
31 Rồi Người bắt đầu dạy cho các
ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh
sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại.32 Người nói rõ
điều đó, không úp mở. Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách
Người.33 Nhưng khi Đức Giê-su quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người
trách ông Phê-rô: "Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh
không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người."
34 Rồi Đức Giê-su gọi đám đông cùng với các môn đệ
lại. Người nói với họ rằng: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác
thập giá mình mà theo.35 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ
mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng
sống ấy.
Suy Niệm
Bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay gồm ba phần thật rõ rệt, và có thể được
hiểu theo cấu trúc song song đối xứng như sau:
A. « Thầy là
ai ? »
B. Giảng dạy về con đường Thương Khó và
Phục Sinh
A’. « Ai muốn đi
theo tôi… »
Câu hỏi của Đức Giê-su: « Còn anh em, anh em
nói Thầy là ai ? » mời gọi mỗi người môn đệ, nghĩa là mỗi người Ki-tô
hữu chúng ta, trả lời một cách đích thân (A). Lời nói tuyên xưng Người là ai
phải đi đôi với bước chân đi theo Người (C), như thánh Gia-cô-bê mời gọi, trong
bài đọc II, đức tin phải đi đôi với hành động (x. Gc 2, 14-18). Và không phải
đi theo Người trên con đường mình muốn, nhưng trên con đường Vượt Qua của Người
(B).
Xin Chúa làm cho chúng ta, những đã làm cho thánh
Phao-lô, hiểu biết và cảm nếm sự khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa, được
thể hiện nơi mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô, để con tim của chúng ta được
chinh phục.
1. « Thầy là ai? » (c. 27-30)
a. « Người ta nói Thầy là ai ? »
Với câu hỏi thứ nhất này của Đức Giê-su, các môn đệ đồng thanh trả
lời : « Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông
Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại». Câu trả
lời tuy chưa đúng với điều Người thực sự là trong tương quan với Thiên Chúa và
với loài người, nhưng lại diễn tả một cách thật khách quan cách sống của Người,
và nhất là phù hợp với con đường qua đó Người bày tỏ căn tính đích thật của
mình.
Thật vậy, Người đã hiện diện như thế nào, để cho người ta không đồng hóa
Người với một kinh sư, luật sĩ hay quí tộc… nhưng nói về Người như một ngôn
sứ ? Như thế, Đức Giêsu đã chọn lựa ứng xử giống như những ngôn sứ đi
trước Ngài, đến độ người ta nói Người là Gio-an Tẩy Giả, là Ê-li-a, hay là một
trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại ! Qua đó, chúng ta có thể nhận ra
với tâm tình cảm mến, rằng Người đã hòa nhập vào một truyền thống, hay đúng
hơn, Ngài xuất phát từ một truyền thống, từ lịch sử, văn hóa, tôn giáo của dân
tộc Ngài. Ngài không từ trên trời nhảy xuống cách ngoạn mục, để mọi người thán
phục, như ma quỉ gợi ý. Nếu làm thế Ngài, chắc hẳn Ngài cũng sẽ được nhìn nhận
là Con Thiên Chúa, nhưng là Con Thiên Chúa theo kiểu của ma quỉ. Ngài đến để
hoàn tất, chứ không phải hủy bỏ.
Ngài ứng xử giống với nhiều người đi trước Ngài, như Gioan, như Elia, như
Giêrêmia… ; và tất cả đều là ngôn sứ. Như chính Ngài đã nói về mình :
« Không một ngôn sứ nào được đón nhận nơi quê của mình ». Số phận của
các ngôn sứ loan báo số phận của Đức Giêsu, mà gần Ngài nhất là số phận của
Gioan. Theo mặc khải Cựu Ước, Người Tôi Tớ đau khổ là hình ảnh biểu tượng của
tất các các ngôn sứ thuộc mọi thời đại. Đức Giêsu đến để hoàn tất cách trọn vẹn và duy nhất thân phận của Người Tôi Tớ đau
khổ và cả niềm hi vọng được Thiên Chúa tôn vinh nữa, nơi chính cuộc đời hướng
tới mầu nhiệm Vượt Qua của mình. Và chỉ một mình Đức Giê-su mới có thể hoàn tất
như thế. Chính vì thế, ngay khi ông Phê-rô trả lời đúng về căn tính của Người, Đức
Giê-su nói về mầu nhiệm Vượt Qua và mời gọi Phê-rô và tất cả mọi người đi con
đường của mầu nhiệm Vượt Qua.
b. « Còn anh em, anh em nói Thầy là ai ? »
Tuy nhiên, trong tương quan thiết thân với Người, Đức Giê-su mời gọi các
môn đệ, và đến lượt chúng ta hôm nay, vượt qua điều « người ta » nói
về Ngài đến đi đến điều chính « tôi » nói về Ngài. « Người
ta » có thể hiểu là những người nói không đúng hay không đủ về Chúa, nhưng
cả những người nói đúng nữa. Nghĩa là chúng ta được mời gọi vượt những công
thức có sẵn, hay đúng hơn, đi vào kinh nghiệm thiêng liêng và đích thân, từ đó
các công thức được phát biểu. Tương tự như khi chúng ta hát bài tán tụng Magnificat, chúng ta được mời gọi có
cùng một kinh nghiệm của Đức Maria, người “Nữ Tì hèn mọn”, về Thiên Chúa và về
ân huệ lớn lao và nhưng không của Người.
Vì thế, khi Đức Giêsu đặt câu hỏi thứ hai, cũng cho tất cả các môn đệ,
nhưng chỉ có một mình Phê-rô trả lời : “Thầy là Đức Ki-tô của Thiên Chúa”.
Trong khi, với câu hỏi thứ nhất, các môn đệ đã đồng thanh trả lời. Như thế, với
câu hỏi này, ai cũng cảm thấy mình phải trả lời một cách đích thân ; mỗi
người được mời gọi đến một lúc nào đó, không nói theo người khác (cho dù là rất
đúng, rất hay), không nói theo công thức có sẵn (cho dù đó là giáo lý, tín lý,
là truyền thống), nhưng đích thân công bố
Đức Giê-su là ai đối với mình; và khi công bố bằng lời Đức Giê-su là ai đối
với mình, mỗi người chúng ta được mời gọi cư ngụ trong câu trả lời của mình,
dấn thân trong điều mình nói, đến độ mình và điều mình nói là một ; bởi vì
câu hỏi của Đức Giê-su không liên quan đến kiến thức chúng ta có về Ngài, nhưng
liên quan đến tương quan thuộc về : « Thầy là ai đối với con, đối với
con tim con, đối với cuộc đời, đối với ơn gọi của con ? », « Khi
trả lời Thầy là ai, con có đi theo Thầy không, có sẵn sàng thuộc về Thầy suốt
đời không ?
Mỗi người chúng ta được mời gọi tự hỏi : Sau bằng đó năm đi theo Chúa
trong một ơn gọi, ơn gọi gia đình hay ơn gọi dâng hiến, tôi đã nghe Chúa đặt ra
câu hỏi này cho mình chưa ? Và tôi đã trả lời thực sự và dứt khoát cho
Chúa chưa? Hay tôi mới chỉ nghe và trả lời giống như mọi người mà thôi, chứ
chưa đích thân nghe được tiếng Chúa và đích thân trả lời cho Chúa như một người
lớn ? Và nếu như tôi nghe được tiếng Chúa hỏi hôm nay, ở đây và lúc này,
tôi trả lời làm sao cho Chúa ? Hay tôi chưa sẵn sàng, và muốn khất lại sau
này? Dĩ nhiên, mỗi người chúng ta có thể trả lời như Phêrô: “Thầy là Đức Kitô,
Con Thiên Chúa Hằng Sống”. Nhưng đâu là cách thức Người bày tỏ căn tính thần
linh của Người ? Và tôi có đón nhận Người vào trong cuộc đời và nhất là
trong những lựa chọn lớn nhỏ của chúng ta không ?
2. « Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ
nhiều... » (c. 31-33)
Như chúng ta đã nói, sau câu hỏi thâm sâu và riêng tư : « anh em
nói Thầy là ai ? », Đức Giê-su bắt đầu dẫn các môn đệ đi sâu hơn vào
trong tương quan « thuộc về nhau » với Ngài. Thật vậy, Đức Giêsu bắt
đầu dạy các môn đệ:
Con Người phải chịu đau khổ nhiều,
bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ,
bị giết chết và sau ba ngày, sống lại”. (c. 31)
Đức Giêsu dạy, chứ không chỉ báo
trước ; điều này có nghĩa là những gì sẽ xẩy ra cho Ngài không chỉ thuộc
bình diện số phận phải đón nhận, nhưng còn là một lựa chọn, một kế hoạch, một
mặc khải tuyệt đỉnh của Thiên Chúa. Thật vậy, cuộc Thương Khó và Thập Giá Đức
Ki-tô :
Ø Mặc khải sữ dữ đang hoành hành nơi con người và cách Thiên Chúa chiến thắng
sự dữ.
Ø Mặc khải lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người tội lỗi và ban ơn
chữa lành.
Ø Mặc khải sự thương cảm của Thiên Chúa đối với thân phận con người.
Ø Mặc khải thân phận con người không phải là hình phạt và cũng không phải là
con đường dẫn đến sự chết, nhưng là đến sự sống, ngang qua sự chết.
Như thế, lời tuyên xưng Đức Giêsu Nazareth là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa
hằng sống phải đi đôi với lựa chọn đi theo Ngài, đi con đường của Ngài. Sau
này, Phêrô và các môn đệ đã hiểu ra con đường Thương Khó và đã đi đến cùng con
đường Thương Khó của mình. Chúng ta cũng vậy, chúng ta được mời gọi hiểu ra con
đường Thương Khó của Đức Giêsu và đảm nhận con đường Thương Khó của mình, con
đường Thương Khó của thế hệ mình. Con đường Thương Khó của chúng ta là :
nhờ Đức Ki-tô, với Đức Ki-tô và trong Đức Ki-tô, chúng ta đảm nhận đến cùng
thân phận làm người của mình, ơn gọi của mình, với tâm tình tín thác vô kiện
của người con thảo, được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa Cha.
Thánh Phêrô đã không hiểu bài học của Đức Giêsu, vì thế không thể chấp nhận
điều Đức Giê-su giảng dạy về con đường Ngài phải đi: ông kéo riêng Ngài ra và
bắt đầu trách Thầy của mình. Như ông Phêrô, chúng ta cũng từng đi theo Chúa,
nhưng với dự án hay ước muốn riêng của mình, và lại còn muốn Chúa chấp nhận
điều mình muốn. Nhưng đó không phải là đường lối của Thiên Chúa, nhưng của loài
người, do Satan xúi dục. Xin cho chúng ta gắn bó thân thiết với Lời Chúa, với
Ngôi vị của Chúa, để nhạy bén và cương quyết loại bỏ những tư tưởng và hướng đi
không thuộc về Thiên Chúa.
3. “Ai
muốn đi theo tôi” (c. 34-38).
Chúng
ta thường hiểu, lời này chỉ dành cho những người đi tu. Nhưng Tin Mừng nói cho
chúng ta rằng lời mời gọi này của Đức Giêsu dành cho các môn đệ và cả đám đông
nữa. Hơn nữa, ơn gọi Kitô hữu là ơn gọi đi theo Đức Giêsu; vì thế lời này của
Đức Giêsu ngỏ với mọi người Kitô hữu chúng ta, sống đời tu, sống đời sống gia
đình hay sống đời độc thân. Hơn nữa, và đây là lí do quyết định mang lại cho
lời và cho ngôi vị của Đức Giêsu giá trị qui chiếu tuyệt đối: tuy đây là lời
mời gọi ngỏ với tự do của mỗi người: “Ai muốn đi theo tôi…”, nghĩa là ai không
muốn thì thôi, nhưng lời mời này lại liên quan tất yếu đến sự sống, liên quan
đến chuyện sống còn, nghĩa là cứu sự sống hay mất sự sống, liên quan đến con
đường dẫn đến sự sống, và như thế liên quan đến lòng khao khát sự sống có nơi
mỗi người chúng ta:
Ai muốn
cứu sự sống của mình thì sẽ mất; nhưng ai chịu mất sự sống của mình vì tôi và
vì Tin Mừng, sẽ cứu được. (c. 35)
Sự sống
của chúng ta, dù có cố giữ lấy hay cho đi, thì rốt cục cũng sẽ chấm dứt. Đức
Giêsu mời gọi chúng ta lựa chọn con đường cho đi: “hãy từ bỏ chính mình, hãy
vác thập giá của mình, hãy chịu mất sự sống của mình vì Ngài và vì Tin Mừng của
Ngài”. Cho đi sự sống để nhận lại sự sống, điều này vừa nghịch lí vừa khó sống;
ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về những khó khăn này. Tuy nhiên, đó lại
là qui luật muôn đời của chính sự sống và ai trong chúng ta cũng biết và thậm
chí có kinh nghiệm về qui luật này của sự sống.
Ø Đó hạt
lúa mì, phải chịu chôn vùi và nát tan, để sinh ra nhiều hạt khác. Và đó cũng là
con đường của tấm bánh.
Ø Đó là
sự cho đi chính bản thân mình của cha mẹ, để sự sống được lưu truyền nơi những
người con. Điều đặc biệt đúng theo nghĩa đen nơi những người mẹ; nhất là khi có
những người mẹ, hy sinh sự sống của mình để sinh con.
Ø Đó là
sự hy sinh cuộc đời của các tu sĩ nam nữ, các linh mục để chính Thiên Chúa làm
phát sinh ra hoa trái sự sống gấp trăm.
Để cho
sự sống được tiếp tục, được sinh sôi, để phục vụ cho sự sống, phải chia sẻ,
trao ban, cho đi và hi sinh chính sự sống của mình. Đó chính là qui luật muôn
đời của sự sống. Đức Giê-su Kitô, Con Thiên Chúa cũng không đi con đường lạ
lùng nào khác ngoài con đường muôn đời của sự sống, nghĩa là con đường của hạt
lúa mì: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều…, bị giết chết và sau ba ngày sẽ
sống lại”; và Ngài vẫn trao ban sự sống của mình cho chúng ta hằng ngày trong
Thánh Lễ, dù chúng ta có như thế nào.
Như
thế, lời của Đức Giêsu không còn chỉ là một lời thách đố tận cùng, nhưng còn là
lời của Tin Mừng tận cùng; vì Ngài hứa với chúng ta rằng con đường của hạt lúa
mì, qui luật muôn đời của sự sống, chính là con đường đạt tới sự sống, con
đường nhận lại sự sống từ chính Nguồn Sự Sống là Thiên Chúa hằng sống. Đó hiển
nhiên là lời hứa cho mai sau, nhưng sức mạnh và niềm vui của Sự Sống mới mai
sau, đã được chúng ta cảm nghiệm một cách vừa cụ thể vừa sâu xa ngay hôm nay,
ngay trong hành vi cho đi vì lòng mến Đức Kitô, vì niềm say mê Tin Mừng của
Ngài.
Lm
Giuse Nguyễn Văn Lộc