CHỦ NHẬT 22 TN A
Chúa
Giê su bác bỏ quan niệm của chúng ta về thành công. Giá Hội trong suốt dòng lịch
sử trần gian không có mảy may quyền lực chiến thắng nào trong tay, nhưng lại thường
xuyên đối đầu với thất bại rõ ràng như Đức Ki tô ngày xưa. Sự An ninh duy nhất
mà Đức Ki tô để lại cho chúng ta, đó là lòng tin rằng ngang qua sự chết, có sự
Sống. Quả thật, đó là một quan niệm về thành công không làm cho người ta hài
lòng, kể cả Phê rô và các tông đồ khác, nhưng lại là nền tảng xây dựng sự lạc
quan ki tô giáo.
Sách Tiên tri Giêrêmia 20,
7-9
Tiên
tri Giêrêmia mô tả cho chúng ta sứ mạng Tiên tri đầy cay đắng của mình. Đi trên
những con đường Chúa vạch sẵn dễ bị người ta hiểu lầm, chống đối và chế nhạo.
Trong Giêrêmia có một ngọn lửa nội tâm mà ông không thể chế ngự. Người đã bị
Thiên Chúa dụ dỗ chấp nhận nguy hiểm, bị người ta bác bỏ, thậm chí bị khinh dễ
vì Danh của Người. Ngọn lửa ấy chính là Thần khí vô song trên thế gian, chính
là Tình yêu hấp dẫn và cuốn phăng mọi sự trên đường đi qua.
Thánh vịnh 62
Linh
hồn con khao khát Chúa. Tác giả dùng hình ảnh cơn khát để diễn tả ao ước Thiên
Chúa thật tuyệt vời làm sao! Con khao khát ấy khiến chúng ta không ngừng tìm kiếm
mạch Nước Hằng sống giải khát chúng ta và ban cho chúng ta Sự sống.
Thư gửi Rôma 12, 1-2
Thánh
Phao lô khuyên nhủ chúng ta phải hi sinh cuộc sống của mình như là dấu chỉ duy
nhất đích thực nói lên việc thờ phượng Thiên Chúa, nghĩa là Yêu thương. Như thế,
người Ki tô hữu dứt khoát đưa sự Sống Mới vào trong tâm hồn, sự sống của Vương
quốc mà Chúa Giê su đã hứa. Từ đó tất cả những gì thuộc cuộc sống hiện tại đều
mang một giá trị tương đối.
Tin mừng : Mt 16: 21-27
NGỮ CẢNH
Tin mừng Mt ghi lại ba lời loan báo Thương khó và
Phục sinh (16,21-27; 17,22-23a; 20,17-19) và lần nào cũng kèm theo nhận xét về
sự u mê của các Môn đệ: họ không hiểu những gì Chúa Giê su nói. Lần nào Chúa
Giê su cũng phải giải thích cho họ hiểu sứ mạng của Ngài. Vì thế lời loan báo
nhằm mục đích chuẩn bị các tông đồ hiểu ý nghĩa và đi vào cuộc Thương khó và
Phục sinh của Chúa Giê su. Cuộc khổ nạn là yếu tố gắn liền và là cao điểm của
sứ mạng trong đó Thầy và môn đồ đều được liên kết với nhau.
Có thể đọc đoạn tin mừng theo cấu trúc như sau:
1. Chúa Giê su tiên báo cuộc Thương Khó (16,21)
2. Ông Phê rô ngăn cản Chúa Giê su đi vào cuộc Khổ
nạn (16,22-23)
3. Chúa Giê su giáo huấn về cuộc sống môn đệ
(16,24-17)
TÌM HIỂU
Từ lúc đó: Kiểu nói nầy đánh dấu hai phần lớn
trong Tin mừng Mt: phần thứ nhất từ 4,17-16,20 nói về Nước Trời; và phần thứ
hai từ 4,17-16,20 nói về Chúa Giê su, Con Người trên đường tiến về cuộc thương
khó và phục sinh. Cụm từ nầy dẫn vào câu 21 nêu bật tầm mức quan trọng nơi
quyết định của Chúa Giê su trên đường tiến đến mối nguy hiểm đang rình rập
Ngài.
Người phải đi: Động từ “phải” diễn đạt ý muốn hoặc
chương trình của Thiên Chúa Cha.
Đi lên Giê ru sa lem: Chúa Giê su mô tả chi chiết
cuộc Thương Khó. Điều đó cho thấy Ngài biết trước và làm chủ tình thế.
Đừng để Thầy gặp chuyện ấy: Satan luôn dùng lời
xúi giục cổ xưa để thử thách: “Các ngươi chẳng chết chóc gì đâu, nhưng sẽ trở
nên giống như thần thánh” (Mt 3.4-5). Ở đây nó lại xuất hiện để đối đầu với
Chúa Giê su cũng như lúc Ngài bắt đầu sứ vụ: “Nếu Ngài là Con Thiên Chúa” (Mt
4,5). Phêrô được lời khiển trách của Chúa Giê su soi sáng nên muốn nói: “Nếu
Ngài là Chúa Ki tô, (Hoặc: vì Ngài là Chúa Ki tô), điều đó không thể nào xảy ra
được”. Thế nhưng chính bởi là đấng ki tô nên Ngài phải chết.
Sa tan, lui lại đằng sau Thầy!: lời trách cứ nặng
nề của Chúa Giê su trả lời cho ông Phêrô tiếp theo sau lời tuyên xưng đức tin
cho thấy nó nghiêm trọng đến mức nào. “Anh cản lối Thầy”: dịch sát: “Anh đang
trở thành tảng đá làm cho Thầy vấp ngã”. Vừa rồi mới được khen là có phúc, giờ
đây lại bị gọi là Satan; lúc nãy được gọi là đá tảng, giờ thì tảng đá gây cớ
vấp phạm. Sự tương phản gần như là tuyệt đối. Vì thế chúng ta hiểu được sự
nghiêm khắc trong lời của Chúa Giê su, Ngài dùng chính lời đáp trả cho Satan
khi nó thử thách Ngài trong sa mạc (4,10). Vì trong cả hai trường hợp, Phêrô và
Satan đều nghĩ rằng vì là Con Thiên Chúa, Chúa Giê su sẽ lợi dụng tư cách đó
như một thứ đặc quyền cá nhân để chiếm đoạt một vinh quang thuần tuý phàm trần.
Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưỏng của
Thiên Chúa: lời trách móc nầy trái ngược hẳn lời khen ngợi ở câu 17. Ông Phêrô
đã để cho tư tưởng con người lên tiếng can ngăn Chúa Giê su, nên không thể phù
hợp với mạc khải của Thiên Chúa về Chúa Giê su.
Ai muốn theo Thầy: Lời khuyên nầy, dù trực tiếp
ngỏ với các môn đệ, cũng không nên được coi là dành riêng cho một nhóm ki tô
hữu nhắm đến đời sống trọn lành. Trái lại, lời nói ấy ngỏ với bất cứ ai muốn
theo Chúa Giê su, và mô tả sự dấn thân tích cực mà người môn đệ không được trốn
tránh.
Từ bỏ chính mình: có nghĩa là bỏ đi cả những khát
vọng, những đòi hỏi chính đáng của mình mà tiếp nhận khát vọng và đòi hỏi của
kẻ khác. Tức là không phải chỉ chiến thắng các cám dỗ, mà còn bỏ ra sau những
quyền lợi chính đáng của riêng mình.
Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai
liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy: Hai từ ‘sự sống’
được dùng trong câu với hai nghĩa khác nhau: trước tiên chỉ con người cụ thể
với sự sống thể lí trong thời gian của nó, và kế đến, chỉ sự sống vĩnh cửu như
trong Tin mừng Gioan. Do đó câu nầy có nghĩa: ai muốn cứu lấy sự sống trong
cuộc đời mình, sẽ mất sự sống vĩnh cửu, và ngược lại. Câu 26 cũng vậy: nào có
ích gì cho con người khi được lời lãi tất cả thế gian, nếu vì đó mà lại thiệt
mất sự sống vĩnh cửu.
Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình: nếu
theo nghĩa bình thường của một câu tục ngữ thì câu có nghĩa: sự sống con người
quí giá hơn tất cả mọi sự. Tuy nhiên theo văn mạch và áp dụng vào sự sống vĩnh
cữu, thì có nghĩa: cái gì có thể bù đắp lại việc mất sự sống vĩnh cửu ? Thưa
không có gì bù đắp được.
SỨ ĐIỆP
Chủ nhật tuần trước, chúng
ta đã nghe Đức Ki tô giải thích cho Phê rô: “Phúc cho anh, vì không phải xác
thịt đã mạc khải điều đó, nhưng là cha Thầy, đấng ngự trên trời”. Lời ấy vừa là
lời khen tặng và lời khuyến khích. Phê rô phải thật sự chứng tỏ can đảm để mãi
trung thành với lời tuyên xưng đức tin hùng hồn đó.
Thật ra, ông không hiểu
hết tầm quan trọng của lời tuyên xưng của mình. Ông vừa tuyên xưng Chúa Giê su
là Đấng Messia, nhưng các việc xảy ra ngay sau đó đã cho chúng ta thấy rằng
thật ra ông không hiểu biết gì nhiều. Trong khi ông miên man nghĩ tưởng về một
hào quang chiến thắng của một đấng Messia đầy quyền uy như Chúa Giê su, thì Ngài lại kéo ông về với
thực tại bằng cách loan báo cuộc Khổ nạn và cái chết của Ngài trên Thánh giá.
Vì thế có thể coi đây như là lời chối Chúa lần thứ nhất của ông Phê rô.
Thật vậy, không ai có thể
dò biết được tư tưởng cao siêu khôn lường của Thiên Chúa. Nó vượt xa tầm hiểu
biết của chúng ta và những gì mà chúng ta có thể chấp nhận. Phê rô muốn tránh
cho Chúa Giê su con đường đi ngang thập giá và sự chết. Nhưng không có gì cũng
không ai có thể ngăn cản Ngài dùng chính máu để cứu rỗi thế gian, vì “không có
tình yêu nào lớn hơn là thí mạng cho người mình yêu thương”.
Như Phê rô, tất cả chúng
ta được mời gọi đi theo Chúa Giê su. Đối với chúng ta, đó là vác thập giá đi
theo Ngài. Đức Ki tô ban cho chúng ta con đường thập giá như là một con đường
tình yêu. Đức tin là sức mạnh giúp chúng ta đi theo Đức Ki tô trong đời sống cụ
thể: không còn bám theo cái lô gíc của con người mà là sống theo cái lô gic của
Tình yêu. Và chúng ta biết rằng không có tình yêu đích thực và bền vững nếu
không có sự từ bỏ chính mình vì hạnh phúc của người khác. Chắc chắn, Chúa Giê
su không đòi hỏi chúng ta yêu thương chính sự từ bỏ và đau khổ. Điều mà Ngài
chờ đợi nơi chúng ta, đó là đi cho đến cùng để theo Ngài. Chỉ với điều kiện đó
chúng ta mới có thể được lợi và thành công cuộc sống của chúng ta.
Khi suy niệm về tin mừng
nầy, chúng ta không thể không nghĩ đến tất cả những người đã làm chứng đức tin
của mình đến độ hiến ban sự sống. Như các cha dòng Trapiste bị người Hồi giáo
thảm sát ở Thibirinne, hay nhiều nhà thừa sai ở các nơi khác, đã chấp nhận cái
chết hơn là từ bỏ những người nghèo được giao phó cho các ngài và liên đới với
họ. Những ai chết như thế, đã theo chân Đức Ki tô trên đường thánh giá và là
những người được sự sống muôn đời. Lịch sử Giáo Hội, đặc biệt trong thế kỉ hai
mươi, đầy ắp những trang sách đẩm máu của những chứng tá đức tin, đã cống hiến
cuộc đời mình cho Giáo Hội.
Sống như Đức Ki tô, chính
là chấp nhận lên núi Can vê với Ngài. Có những lúc nào đó, thánh giá tưởng
chừng đè bẹp chúng ta: những bệnh nhân đã kiệt sức vì không còn sức chịu đựng
được nữa. Trong số đó, nổi bật chứng từ của một bệnh nhân: “Tôi không còn sức
để cầu nguyện, nhưng bây giờ, cuộc sống của tôi đã trở thành hiến lễ”. Theo Đức
Ki tô cũng như thế. Nếu chúng ta muốn thật sự gặp Ngài, chúng ta sẽ tìm thấy
Ngài gần những kẻ bị thử thách trong thân xác và tinh thần, những bệnh nhân,
những thành phần bị loại trừ. Ngài được đồng hóa với từng người trong họ.
Làm người Ki tô hữu, thì
không chỉ bằng lòng với những hành động tôn giáo, nhưng còn phải thực hành Tin
mừng. Ngày xưa điều đó tương đối dễ vì môi trường chung quanh giúp đỡ và thúc
đẩy chúng ta sống. Ngày nay, hầu như lúc nào chúng ta phải lội ngược dòng. Thật
là khó khi phải đối đầu với sự dửng dưng tôn giáo hoặc những lời chế nhạo. Thật
không dễ dàng để người ki tô hữu chọn tha thứ hơn là trả thù. Đức Gioan Phao lô
II đã nói: “Những ai nói với anh em về sự dễ dãi, về sự tự phát là lừa dối anh
em”. Có biết bao nhiêu lời đề nghị gọi mời chúng ta đi theo những con đưòng
thật ra chỉ là những ngõ cụt. Nhiều người để cho người khác lạm dụng mình bởi
những sự hài lòng ngay tức khắc, những lời hứa không có ngày mai. Và cuối cùng
đó chỉ là ảo tưởng và thất vọng.
Theo Đức Ki tô còn là
thanh luyện lời cầu nguyện của mình. Rất nhiều lần chúng ta chỉ hướng về Ngài
khi tất cả đã thất bại. Và chúng ta muốn rằng Ngài làm một điều gì đó để mọi sự
được trở nên tốt hơn. Chúng ta không phải là người đọc cho Thiên Chúa biết điều
Người phải làm, và Thiên Chúa không bị bắt buộc phải phục vụ chúng ta vì Người không phải là người phụ tá chúng ta. Có những
ki tô hữu không còn cầu nguyện nữa, hoặc không còn đi tham dự Thánh lễ bởi vì
họ cho rằng điều đó chẳng còn ích lợi gì nữa. Thật sai lầm. Người ta không cầu
nguyện, không đi lễ vì mình, nhưng là vì yêu thương Thiên Chúa. Khi người ta
yêu thương nhau, người ta không nghĩ đến mình trước tiên, nhưng là đến người
khác. Yêu thương thực sự thì sẵn sàng hi sinh cho người khác.
Bài tin mừng hôm nay nói
với chúng ta một lời truyền dứt khoát: “Hãy đi sau ta!”. Đó là một lời mời gọi
thay đổi cái nhìn của chúng ta về Thiên Chúa và về ý nghĩa mà chúng ta gán cho
cuộc sống. Điều quan trọng không phải là sự thành công vật chất, được thăng
quan, hay được đề cao. Chúa Giê su muốn hướng chúng ta đến một lô gic khác,
lôgic của tình yêu, của tình yêu đích thực, của sự tự hiến, của sự nhưng không.
Chính trên con đường ấy mà chúng ta được mời gọi phải đi theo Ngài. Khi chọn
đức Ki tô chúng ta chọn lựa Sự sống, và niềm vui đích thực ở cuối con đường
vượt qua. Đức Ki tô đến để đặt trong tâm hồn chúng ta một sự khao khát tìm
kiếm Ngài không bao giờ ngừng,
trong sự tiếp cận với Ngài khi phục vụ những người nghèo khổ nhất.
“Chính khi hiến thân, là
được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, chính lúc chết đi
là được vui sống muôn đời” (Thánh Phan
xi cô).
ĐÀO SÂU
1. HỎI: Bối cảnh bài đọc
một như thế nào?
THƯA: Tiên tri Giê rê mi a sống vào khoảng năm 650 đến 580 trước
Công nguyên. Ông đã thực thi phần lớn sứ vụ ở thủ đô Giê ru sa lem của Giu đa
trong suốt 40 năm trước khi Thành bị tàn phá và cuối cùng bị lưu đày vào năm
587. Trước những mưu đồ chính trị đen tối, Ông cố gắng giúp mọi người, đặc biệt
giới lãnh đạo trung thành với Thiên Chúa. Ông lớn tiếng thẳng thắng phê phán
những điều xấu, nên những kẻ quyền thế không ưa ông và tìm mọi cách bách hại và
tiêu diệt ông khiến ông nhiều lần bày tỏ tâm sự buồn chán trong tác phẩm của
mình.
2. HỎI: Bài đọc một (Gr 20,
7-9) nội dung như thế nào?
THƯA: Tiên tri Giê rê mia kể lại kinh nghiệm thiêng liêng bi thảm
mà ông trải qua trong suốt cuộc đời làm tiên tri của mình. Đó là kinh nghiệm bị
người đời bách hại và tâm hồn ông bị xâu xé để trung thành nói Lời Thiên Chúa.
3. HỎI: Cuộc chiến nội tâm
của Giê rê mia diễn ra như thế nào?
THƯA: Cuộc chiến đấu nội tâm mà Tiên tri phải chịu là bị giằng co
giữa một bên là Lời Chúa thúc đẩy phải nói và và bên kia là sự khôn ngoan con
người đòi phải im lặng. Ông thú nhận sự thật đau đớn ấy: “Có lần con tự nhủ:
‘Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa. Nhưng Lời
Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim. Âm ỉ trong xương cốt’” (Gr 28, 9.
4. HỎI: Những lời trần
tình ấy còn cho biết điều gì nữa không?
THƯA: Những lời trần tình đau đớn ấy cũng là cho thấy nhiệt tình
thiêu đốt ông và cuối cùng soi sáng cuộc đời ông: “Lạy ĐỨC CHÚA, Ngài đã quyến
rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng.
Lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim,âm ỉ trong xương cốt.” (Gr 20, 7.9).
5. HỎI: Tiên tri nói đến
‘ngọn lửa bừng cháy trong tim’, đó là ngọn lửa nào?
THƯA: Ngọn lửa bừng cháy
trong tim nhắc đến ngọn lửa được nói đến trong Thánh Vịnh 68: “Lòng nhiệt thành
nhà Chúa thiêu đốt con”, mô tả đúng cuộc bách hại mà các tiên tri phải chịu.
6. HỎI: Chúa Giê su có nằm
trong trường hợp ấy không?
THƯA: Có, các tín hữu đầu
tiên đã đọc lại cuộc đời Chúa Giê su theo hướng ấy. Như Giê rê mia, Chúa Giê su
cuối cùng đã bị buộc phải im lặng. Nhưng không gì có thể làm cho Lời Thiên Chúa
im tiếng: Đức Ki tô đã sống lại, và từ nay sẽ đến ngày mà mọi người nghe Lời và
cuối cùng tìm được ánh sáng.
7. HỎI: Bối cảnh của bài
tin mừng như thế nào?
THƯA: Bài tin mừng tiếp theo
đoạn tin mừng tuyên tín của Phê rô tuần trước. Chúa Giê su chấp nhận và khen
ngợi lời tuyên tín của Phê rô, nhưng ngay liền đó Ngài đề ra một chương trình
hoàn toàn không tương hợp với ý tưởng về Đấng Messia của các môn đệ: “Chúa Giê
su bắt đầu tỏ cho cho các môn đệ biết; Ngài phải đi Giê ru sa lem, phải chịu
nhiều đau khổ.. rồi bị giết, và ngày thứ ba sẽ trổi dậy” (Mt 16, 21).
8. HỎI. Có phải đây là lần đầu tiên Chúa Giê su loan báo cuộc
khổ nạn của Ngài cho các môn đệ?
THƯA: Đúng. Đây là lần đầu tiên
Ngài loan báo cuộc khổ nạn, và Ngài bắt các môn đệ phải im lặng hoàn toàn để có
thể chấp nhận “hòn đá vấp” của thập giá. Đi theo Chúa Giê su có nghĩa là từ bỏ
chính mình và cùng Ngài đi lên thập giá.
9. HỎI. Đâu là phản ứng của các tông đồ trước mạc khải đấng
Messia lạ lùng như thế?
THƯA: Khi nghe lời Thầy nói về đau khổ tương lai, về sự chết và
sống lại, họ phản kháng quyết liệt. Phê rô còn lên tiếng chống lại: “Xin Thiên
Chúa thương, đừng để thầy gặp phải chuyện ấy” (Mt 16, 22).
10. HỎI: Tại sao ông Phê
rô lên tiếng phản ứng gay gắt như thế?
THƯA: Bởi vì cũng như nhiều
người đương thời, ông đang trông chờ một đấng Messia làm Vua, chiến thắng vinh
quang, đầy quyền lực đánh đuổi dứt khoát quân xâm lược ra khòi Giê ru sa lem.
Vì thế, ông tỏ ra không đồng tình với những gì Chúa Giê su loan báo. Thiên Chúa
toàn năng không thể để xảy ra những chuyện như thế.
11. HỎI. Vì phản ứng đó mà Chúa Giê su so sánh ông với Sa tan?
THƯA: Chúa Giê su so sánh ông
với Sa tan là để cho ông hiểu rằng ông phải suy nghĩ và nói năng theo ơn đặc
biệt và tính cách riêng của mình bởi vì trước đó ông đã lên tiếng vì dược Chúa
Thánh Thần linh hứng (“Thầy là Đức Ki tô…”).
Nhưng giờ đây, ông đã nói vì bị Ma quỉ xúi giục. Nếu nhân cách của ông
không được củng cố, thì ông sẽ không thể lãnh đạo Giáo Hội Chúa Ki tô.
12. HỎI: Đây có phải là
cơn cám dỗ mới mà Chúa Giê su phải chịu không?
THƯA: Đúng thế. Một lần nữa,
Chúa Giê su cho thấy Ngài bị Sa tan thử thách và dụ dỗ thay đổi chương trình
cứu độ mà Thiên Chúa Cha đã ấn định. Và trên thánh giá Chúa
Giê su cũng sẽ bị thử thách thay đổi cách thức thực hiện chương trình cứu
độ khi bị quân dữ sỉ nhục và chê cười bởi vì không thể “cứu chính mình”.
13. HỎI. Thế nào là ‘từ bỏ chính mình’?
THƯA: ‘Từ bỏ chính mình’ là nói không với tội lỗi
đã ăn sâu trong đời sống, với những gì trái ngược với việc đi theo Chúa Giê su.
Gương của Phê rô cho chúng ta thấy sự trái ngược đó: Chúa Giê su đối lập cách
suy tư cảm nghĩ của con người với cách của Thiên Chúa. Dưới ánh sáng của lời
ấy, từ bỏ mình có nghĩa là không suy tư và cảm nghĩ theo con người mà theo
Thiên Chúa.
14. HỎI: Chúa Giê su muốn
tỏ ra điều gì khi dạy rằng “Ngài PHẢI đi Giê ru sa lem, PHẢI chịu nhiều đau khổ...”
(Mt 16, 21)?
THƯA: Ngài muốn dạy rằng, sự việc Ngài phải chịu đau khổ nằm trong
chương trình cứu độ mà Thiên Chúa Cha đã
giao cho Ngài phải thực hiện. Vì thế, Mát thêu nhấn mạnh ‘từ bấy giờ’ Chúa Giê
su bắt đầu dành nhiều thời giờ để giải thích ý nghĩa về cuộc Khổ nạn cho các
môn đệ (16, 24-28; 18, 1-4; 20, 24-28).
15. HỎI: Lời Chúa dạy: “ai
muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy,
thì sẽ tìm được mạng sống ấy” có nghĩa gì?
THƯA: Lời dạy ấy có nghĩa: Ai muốn cứu mạng sống đời nầy thì sẽ mất
sự sống vĩnh cửu, còn kẻ nào đành mất sự sống đời nầy vì Thầy, thì sẽ được sự
sống vĩnh cửu.
16. HỎI. Bìa đọc một đem lại cho chúng ta điều gì?
THƯA. Lời Chúa dạy chúng ta đừng để mình tuyệt vọng khi bị thử
thách trong sứ mạng. Ý thức về vinh dự được Thiên Chúa yêu thương chọn lựa và
tin dùng sẽ giúp thắng vượt mọi thử thách khó khăn. “Lạy Chúa, Chúa đã dụ dỗ
con, và con đã để Chúa dụ dỗ, Chúa đã cưỡng bức con và Chúa đã thắng con” (Gr
20,7). Đó là lời bộc lộ tâm tình của tiên tri Giê rê mia, chỉ cho thấy kinh
nghiệm của một người trước nhan Thiên Chúa. Ông đã cho thấy cảm xúc con người,
sợ hãi, do dự. Và đó là một giá đắt cho sự trung thành với sứ mạng. Ông đã bị ở
tù trong đền thờ và đó là cơ hội để ông xem xét sứ mạng tiên tri của mình: ông
sung sướng và hân hoan vì tinh yêu Thiên Chúa đã ở với ông, khi mời gọi ông
chấp nhận sứ vụ.
17. HỎI. Kinh nghiệm của tiên tri Giê rê mia có thể đưa chúng
ta về với sứ điệp tin mừng hôm nay chăng?
THƯA. Chắc chắn là như thế. Sau lời tuyên tín của ông Phê rô,
Chúa Giê su giờ đây lo huấn luyện các môn đệ, giúp họ hiểu ý nghĩa đúng dắn của
tính cách Messia đau khổ nơi Ngài. Ngài đòi hỏi nhóm Mười hai một sự thay đổi
thiêng liêng: chấp nhận dung mạo một đấng Messia “khác” với những gì họ tưởng
tượng. Không phải là một đấng Messia quyền thế và chiến thắng, nhưng là một
người Con vâng phục Cha cho đến chết trên Thánh giá! Đấng Messia vinh quang và
chiến thắng trên trần gian phải nhường chỗ cho hình ảnh của người Tôi tớ đau
khổ, bị sỉ nhục, bị xúc phạm và bị từ chối. Vinh quang và
chiến thắng của Đấng Messia không theo kiểu của con người bởi vì Vương quốc Ki
tô, quyền Chủ tể của Ngài không thuộc trần gian nầy!
18. HỎI. Đi theo Chúa Giê su có nghĩa gì đối với chúng ta?
THƯA: Đi theo
Chúa Giê su là chấp nhận Ngài trong cuộc sống, chia sẻ con đường Ngài đã đi,
luôn bao gồm chiều kích Thập giá. Nói thì dễ và chúng ta rất sẵn sàng, nhưng
nếu chỉ có muốn và biết thôi thì xem ra chưa đủ. Cần phải có một chiều kích
khác của cuộc sống: đó là chiều kích tình yêu. Sự dữ, sự xấu lên tiếng mạnh mẽ
hơn, nhưng trong tòan bộ cuộc sống và lịch sử thì tình yêu đã thắng thế. Chỉ có
tình yêu đích thực, chân chính, sâu xa như ngọn lửa sáng chói thiêu đốt bên
trong mới có thể nói không với tính ích kỉ và giúp ta chọn lựa con đường ý muốn
của một “Đấng Khác”.