Thứ ba, sau Chúa Nhật XIV Thường Niên
Tin
Mừng Nước Trời và Sự Sống
(Mt 9,
32-38)
1. Tin Mừng
Nước Trời và dấu chỉ phục vụ sự sống
Trong bài Tin Mừng theo thánh Mát-thêu hôm nay,
cùng với việc giảng dạy để loan báo Tin Mừng Nước Trời, Đức Giê-su còn “chữa
hết các bệnh hoạn tật nguyền”; không chỉ bệnh hoạn tật nguyền gây ra do thân
phận của con người, nhưng còn do bởi ma quỉ, vốn luôn phá hoại tương quan tin
tưởng và tình yêu giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Bởi
vì, con người không chỉ sống bằng sức khỏe thể lí, nhưng còn bằng tương quan
nữa, tương quan với mình, với người khác và với Chúa; con người không thể sống
bình an và hạnh phúc, nếu những tương quan này bị tổn thương.
Ngoài ra, để cho sự sống này có ý nghĩa, con người
còn cần có hướng đi và niềm hi vọng hướng tới cùng đích đáng ước ao và mong
chờ; chính vì thế, Đức Giê-su còn quan tâm đến sứ mạng chăn dắt đối với con
người nữa, vì dưới mắt Ngài, loài người chúng ta “lầm than vất vưởng, như bầy
chiên không người chăn dắt”.
Như thế, Tin Mừng Nước Trời gắn liền với dấu chỉ
phục vụ cho sự sống: ở đâu có Nước Trời, ở đó có sự phục vụ cho sự sống; và ở
đâu có sự phục vụ cho sự sống, ở đó Nước Trời hiện diện. Đức Ki-tô đã phục vụ
cho sự sống của loài người và từng người chúng ta “cho đến cùng”, nghĩa là trở
thành Bánh nuôi dưỡng chúng ta, trở thành hiện thân của tình yêu và lòng thương
xót của Thiên Chúa cho chúng ta; và Ngài mời gọi mỗi chúng ta đích thân đón
nhận sự phục vụ của Ngài, để có thể phục vụ như Ngài. Đó chính là cách thức Đức
Ki-tô loan báo Tin Mừng và làm cho Nước của Thiên Chúa Cha trị đến.
2. Ma quỉ
làm cho câm
Phép lạ Đức Giêsu chữa lành một người câm bị quỉ
ám, được kể lại thật ngắn gọn, có lẽ không thể ngắn hơn: “Người ta đem đến cho
Đức Giê-su một người câm bị quỉ ám. Khi quỉ bị trục xuất rồi, thì người câm nói
được”. Nhưng nếu dừng lại suy niệm, chúng ta sẽ nhận được nhiều ánh sáng.
Cách nói “một người câm bị quỉ ám” có thể làm cho
chúng ta hiểu rằng người này bị câm trước, rồi mới bị quỉ ám. Nhưng khi nạn
nhân được giải thoát khỏi ma quỉ, thì nói được. Điều này có nghĩa là chính ma
quỉ làm cho câm, không nói được. Vì thế, đó là một người “bị quỉ ám câm” (theo
tiếng Hi-lạp); câm là hệ quả của việc bị quỉ ám.
Lời nói quan trọng biết bao trong cuộc sống, để đi
vào tương quan và duy trì tương quan, nhưng nhất là vì lời nói có sức mạnh làm
cho sống hay giết chết, như sách Huấn Ca nói: “Có nhiều kẻ gục ngã vì lưỡi
kiếm, nhưng làm sao sánh được với những kẻ gục ngã vì lưỡi người?” (Hc 28, 18).
Chính vì thế lời nói là biểu tượng của chính sự sống và chúng ta gọi biến cố
sinh ra của một con người là “tiếng khóc chào đời”. Cách hiểu này có nguồn gốc
từ chính Ngôi Lời là sự sống (Ga 1, 4).
Như thế, khi làm cho con người câm, ma quỉ muốn
phá hoại sự sống, muốn gieo rắc bầu khí chết chóc vào trong sự sống. Hiểu như
thế, ma quỉ vẫn còn hành động như thế hôm nay nơi tất cả mọi người, khi làm cho
người ta “câm”, không phải thể lí, nhưng nghiêm trọng hơn, “câm” không nói được
với Chúa những lời ca tụng và tạ ơn, không nói được với nhau những lời làm cho
sống, những lời cảm thông, tha thứ, những lời làm cho tái sinh, những lời yêu
thương, những lời phục vụ cho sự sống.
Đức Giê-su Ki-tô là Ngôi Lời Sự Sống và chúng ta
được dựng nên bởi Ngài và cho Ngài; chính vì thế, chúng ta là những tạo vật có
khả năng trao ban lời sự sống. Xin Chúa đến và xin cho chúng ta mở rộng lòng ra
để đón nhận Ngài, để Ngài giải thoát chúng ta khỏi ma quỉ, để Ngài tái sinh và
làm cho chúng ta sống đúng với căn tính của mình, là Con Thiên Chúa, luôn sống
bằng Lời Sự Sống và trao ban Lời Sự Sống.
Người bị ma quỉ làm cho câm, nhưng Đức Giê-su làm
cho nói được bằng cách trừ quỉ. Nhưng những người chứng kiến lại nói: “Ông ấy
dựa vào thế quỉ vương mà trừ quỉ”. Như thế, họ vốn nói được, nhưng đã trở thành
“câm” (x. Ga 9, 39).
3. Lúa chín
đầy đồng
Đức Giê-su thấy đám đông thị chạnh lòng thương, và
Ngài nhận ra họ giống như bầy chiên không người chăn dắt. Chúng ta dễ dàng hình
dung ra bầy chiên sẽ ra như thế nào, khi không có mục tử : chúng sẽ vất
vưởng, vì lạc lối, tán loạn không tìm ra hướng đi hay đường đi ; chúng sẽ
lầm than, vì không tìm ra nguồn nước uống và lương thực đích thực, không tìm ra
nơi chốn vĩnh cửu để nghỉ ngơi ; và kết cục, không sớm thì muộn, cũng sẽ bị
bách hại bởi sói dữ, bị lôi kéo bởi những kẻ lừa đảo, chuyên dụ dỗ, bởi thần
tượng hay ngẫu tượng đủ loại. Vào thời của Đức Giê-su, đã có những đám đông như
thế ; và vẫn còn những đám đông như thế vào thời của chúng ta ngày nay.
“Đám đông lầm than vất vưởng” ngày nay là những
ai? Đó là những người, nhóm người, hay cả một xã hội, nhưng nhất là những người
trẻ, mất hướng đi, mất niềm tin, chạy theo những mục đích chóng qua, bề ngoài,
không có giá trị nhân bản, nhân linh truyền thống bền vững, chạy theo các thần
tượng hay ngẫu tượng.
Và chính chúng ta nữa, ở mức độ nào đó, cá nhân
cũng như cộng đoàn, chúng ta cũng sẽ trở thành lầm than vất vưởng, mỗi khi
chúng ta không để cho Đức Giê-su là mục tử, chăn dắt chúng ta, hướng dẫn chúng
ta, nuôi dưỡng chúng ta bằng Lời của ngài, bằng Mình và Máu thánh của Ngài, mỗi
khi chúng ta không đón nhận sự nghỉ ngơi và bình an mà Chúa ban cho chúng ta
(x. Mt 11, 28-30).
Tuy nhiên, Đức Giê-su lại coi tình trạng khốn khổ
của đám đông như mùa gặt, và không như một mùa gặt tầm thường : « Lúa
chín đầy đồng », nghĩa là trúng mùa và đem lại niềm vui ! Lời này của
Thánh Phao-lô giúp chúng hiểu tâm tình sâu xa của Đức Giê-su : « Ở
đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội » (Rm 5, 20).
Lí do tận cùng, đó chính là vì Đức Giê-su chạnh lòng thương, nhận chăm sóc với
tư cách là Người Mục Tử tốt lành, là Chủ Mùa gặt.
Ngài là Chủ Mùa Gặt, nghĩa là Ngài có trách nhiệm,
nhưng Ngài lại mời gọi các môn đệ và cả chính chúng ta nữa : « Xin
chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về » ! Như thế, Ngài mời gọi chúng ta
tham gia, chia sẻ trách nhiệm của Ngài đối với mùa gặt. Nhưng trong thực tế,
Ngài không đợi các môn đệ xin, nhưng tức khắc, Ngài gọi các môn đệ, trao quyền
và sai đi (đó là nội dung của bài Tin Mừng ngày mai : Mt 10, 1-8). Đơn
giản vì đó là chuyện khẩn cấp ! Hình ảnh « bầy chiên không người
chăn » và hình ảnh « mùa gặt đã đến » diễn tả thật rõ ràng khía
cạnh khẩn cấp của sứ vụ. Và Ngài đã sai chính những người xin Ngài sai thợ ra
gặt lúa về ! Điều này có nghĩa là, họ không chỉ xin Chúa sai người khác,
nhưng còn ước ao cùng với Ngài chạnh lòng thương đám đông và xin Ngài sai chính
họ.
Chúng ta cũng vậy, chính khi chúng ta xin Chúa sai
thợ ra gặt lúa về, chúng ta cũng được mời gọi đồng cảm với Chúa, cùng chạnh
lòng thương không chỉ đối với đám đông xa xôi, nhưng đối với những anh chị em
bên cạnh chúng ta. Và nhất là, chúng ta cũng tình nguyện trở thành thợ gặt của
Chúa, để Chúa sai chính chúng ta đi. Và vì là mùa gặt và được sai đi gặt, chứ
không phải đi xét đoán hay lên án, chúng ta đi trong niềm vui và hi vọng.
* * *
Kinh nghiệm thiêng liêng nào đã có thể làm phát
sinh ra một lời nguyện trọn vẹn như thế, nếu không phải là kinh nghiệm được
diễn tả trong lời này của Đức Giê-su : « Anh em đã được cho không,
thì cũng phải cho không như vậy ». Khi nói ra lời này, với tư cách là Con
của Thiên Chúa, chính Đức Giê-su đã có kinh nghiệm này và Ngài đã và sẽ sống
đến cùng.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc