Ngày 22 Tháng Bảy
Thánh nữ Ma-ri-a Ma-đa-lê-na
(Thế kỷ I)
“Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội
của chị rất nhiều nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được
tha ít thì yêu mến ít” (Lc 7,47). Phải, chúng ta không còn hồ nghi gì về lòng
yêu mến Chúa của Ma-đa-lê-na. Chính lòng yêu mến ấy đã lôi kéo Ma-đa-lê-na từ
tình trạng tội lỗi của một phụ nữ giang hồ trở thành một phụ nữ thánh thiện
gương mẫu.
Không ai biết rõ Ma-đa-lê-na đã
sinh ra vào năm nào, nhưng Tin Mừng đã nói nhiều về chị. Chị đã sống đồng thời với Chúa Giê-su. Tính đa sầu, đa cảm đã dẫn đưa chị đi vào đời
sống trụy lạc. Trong lúc chị mải mê trong cuộc sống tội lỗi, thì một ánh hào quang xuất hiện. Ánh hào quang ấy soi thấu tận
đáy lòng chị, khiến chị tỉnh ngộ và quyết tâm quay về đường ngay nẻo chính, trở
thành một chiến sĩ tuyệt vời của Tin Mừng. Ánh hào quang đó chính là Chúa
Giê-su. Như một con chiên lạc đàn khi nghe tiếng chủ chăn thì vội vã trở về đàn, Ma-đa-lê-na cũng vậy, vừa nghe lời kêu gọi tha thiết của Chúa Giê-su, Chúa chiên lành, chị liền trở về không chút luyến tiếc cuộc sống phóng túng xưa.
Nhưng bao tháng ngày qua, những vết
nhơ tội lỗi còn đó, biết lấy chi gội rửa cho
sạch! Ma-đa-lê-na quyêt một lòng thống hối, lấy nước mắt lau sạch tội thánh Lu-ca đã kể lại cho chúng ta cái cảnh tượng vô cùng cảm động ấy: “Có
người thuộc nhóm Pha-ri-sêu mời Đức Giê-su dùng bữa với mình.
Đức Giê-su đến nhà người Pha-ri-sêu ấy và vào bàn ăn. Và kìa một phụ nữ vốn là
người tội lỗi trong thành, biết được Ngài đang dùng bữa tại nhà ông Pha-ri-sêu,
liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. Chị đứng đằng sau, sát chân
Ngài mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Ngài. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi
hôn chân Ngài và lấy dầu thơm đổ lên.
Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu dã mời
Ngài, liền nghĩ bụng rằng: “Nếu quả thật, ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết
người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi!” Đức
Giê-su lên tiếng bảo ông: “Này ông Si-mon, tôi có điều muốn nói với ông!” Ông ấy thưa: “Dạ, xin Thầy cứ nói: Đức Giê-su nói: “Một
chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người nợ năm chục.
Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong
hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?” Ông Si-mon đáp: “Tôi thiết tưởng
là người đã được tha nhiều hơn”. Đức Giê-su bảo: “ông xét đúng lắm”.
Rồi quay lại phía người phụ nữ,
Ngài nói với ông Si-mon: “Ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước
lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy lấy nước mắt tưới ướt chân tôi,
rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn chân tôi một
cái, còn chị ấy từ vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu Ô-liu, cũng không
đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. Vì thế,
tôi nói cho ông hay- tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít” Rồi Đức Giê-su nói
với người phụ nữ: “Tội của chị đã được tha rồi”. Bấy giờ những người đồng bàn
liền nghĩ bụng: “Ông này là ai mà lại tha được tội?”
Nhưng Đức Giê-su nói với người phụ nữ: “Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi
bình an” (Lc 7, 36-50).
Đức tin đã cứu Ma-đa-lê-na ngay từ
giây phút đầu tiên, chị đã cảm mến Chúa và một cách mặc nhiên, chị tin rằng: Đấng
chị cảm mến là vị Cứu Thế. Nay sự tin tưởng đó lại dược củng cố thêm và đã trở
thành hoàn hảo vì Đấng đó đã trực tiếp tha tội cho chị. Trước kia, tội lỗi làm
chị đỏ như son, thì nay chị được gột sạch và nên trắng như tuyết.
Cuộc đời của chị, từ nay đã được
định hướng, chị quyết tâm tự hiến để giúp việc rao giảng Tin Mừng- Lòng nhiệt
thành của chị đã được các Tin Mừng ghi lại nhiều lần. Gia đình của chị còn có một
chị là Mác-ta và một anh là La-da-rô, đã trở nên như chỗ lui tới quen thuộc của
Chúa Giê-su và các môn đệ Ngài. Bê-ta-ni-a cái tên êm ái, nơi chị sinh trưởng,
đã được Tin Mừng nhắc đi nhắc lại một cách thật
đáng yêu. Chính tại đây, vì tình thương mến gia đình
Ma-đa-lê-na, Chúa Giê-su đã thổn thức, rơi lệ trước khi cho
La-da-rô sống lại. Và cũng chính tại đây, một lần nữa,
Ma-đa-lê-na đã tỏ ra mộ Lời Chúa. Tin Mừng thuật lại rằng: “Trong kh1 Thầy trò
đi đường, Đức Giê-su vào làng kia có người phụ nữ tên là Mác-ta đón ngài vào
nhà. Cô người em gái tên là Ma-ri-a. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời
Ngài dạy. Còn cô Mác-ta thì tất bật Ịo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói: “Thư
Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó
giúp con một tay!” Chúa đáp: “Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều
chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất
và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10, 38-42).
Thái độ của Ma-đa-lê-na đã được
Chúa Giê-su công khai khen ngợi mặc dầu chị đã không công khai giúp đỡ Mác-ta
trong việc phục vụ Chúa. Chúa khen Ma-đa-lê-na vì chị đã biết nghe lời Chúa, là
chân lý đem đến ơn cứu độ, nên quả thật, chị đã chọn phần tốt nhất. Và cũng
chính tại Bê-ta-ni-a, Ma-đa-lê-na một lần nữa, chị đã lấy một cần dầu thơm cam tùng nguyên chất rất đắt tiền, xức chân Chúa Giê-su, rồi lấy
tóc mà lau (Ga 12, 3). Với tấm lòng chân thành, Ma-đa-lê-na đã dùng tất cả những
gì có thể để biểu lộ tình yêu mến đối với Chúa.
Trên bước đường truyền giáo của
Chúa Giê-su, Ma-đa-lê-na cùng với một số bà đạo đức khác, hầu như lúc nào cũng đi với Chúa Giê-su để giúp đỡ
Ngài. Đặc kiệt là những ngày cuối đời Chúa Giê-su, nhất là trong từng giờ phút đau thương nhất trên núi Sọ, Ma-đa-lê-na lúc nào cũng có mặt, trong khi các môn đệ Chúa quá sợ hãi đã bỏ Thầy chạy trốn cả. “Đứng gần thánh giá Chúa Giêsu, có thân mẫu Ngài, chị của bà thân mẫu, bà Ma- ri-a vợ ông Cơ-lô-pát cùng với Ma-ri-a
Ma-đa-lê-na” (Ga 19, 25). Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần,
lúc trời còn tối bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì
thấy tảng đá đă lăn ra khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Si-mon Phê-rô và người
môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói- “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và
chúng tôi chẳng biết họ để Ngài ở đâu?” (Ga 20, 1-2). Thật không còn lời nào
hùng hồn hơn để nói lên lòng trung thành, yêu mến của Ma-đa-lê-na đối với Chúa
Giê-su. Ma-đa-lê-na hăng hái, nhiệt thành, can đảm và trung thành hơn cả các
tông đồ. Chính vì thế mà Ma-đa-lê-na đã được Chúa Giê-su ân thưởng bội hậu. Sau
khi sống lại, Ngài đã hiện ra với Ma-đa-lê-na, trước
khi hiện ra cho các tông đồ. Cảnh tượng cảm động đó đã được thánh Gio-an mô tả
khéo léo như sau: “Bà Ma-ri-a đứng ở ngoài, gần bên mộ mà khóc. Bà vừa khóc, vừa
cúi xuống nhìn vào trong mộ, thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã
đặt thi hài của Đức Giê-su, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. Thiên thần hỏi
bà: “Này bà, sao bà khóc?” Bà thưa: “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi và tôi
không biết họ để Ngài ở đâu!” Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giê-su đứng đó,
nhưng bà không biết là Đức Giê-su. Đức Giê-su nói với bà: “Này bà, sao bà khóc?
Bà tìm ai?” Bà Ma-ri-a tưởng là người làm vườn, liền nói: “Thưa ông, nếu ông đã
đem Ngài đi, thì xin nói cho tôi biêt ông để Ngài ở đâu, tôi sẽ đem Ngài về”. Đức
Giê-su gọi bà: “Ma-ri-a!” Bà quay lại và nói bằng tiếng Híp-ri- “Ráp-bu-ni!” (nghĩa là “Lạy Thầy”) Đức Giê-su
bảo: “Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp
anh em Thầy và bảo họ: “Thầy lên cùng Chúa Cha của Thầy,
cũng là Cha của anh em lên cùng Thiên Chúa của Thầy,
cũng là Thiên Chúa của anh em”. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi
báo cho các mộn đệ: “Tôi dã thấy Chúa” và bà kể lại những điều Ngài đã nói với
bà (Ga 20, 11-18). Ma-đa-lê-na đã làm tròn sứ mệnh Chúa trao là đi báo ngay cho
các tông đồ tin Chúa đã sống lại và đã hiện ra với bà. Chính vì thế, mà bà đã
được tặng danh hiệu cao quý: “Tông đồ của các Tông đồ”.
Để kính nhớ công đức của
Ma-đa-lê-na ngay từ đầu Giáo Hội đã tôn kính bà như một vị đại thánh, đồng thời
lấy đời sống của bà, như một tấm gương trong sáng cho mọi
người soi chung.
Lời nguyện:
Lạy Chúa Cha hằng hữu, thánh nữ
Ma-ri-a Ma-đa-lê-na là người thứ nhất được Con Một Chúa giao cho sứ mạng loan
Tin Mừng Phục Sinh. Nhờ lời thánh nữ chuyển cầu, xin cho
chúng con cũng biết noi gương người mà rao giảng mầu nhiệm Chúa Ki-tô Phục
sinh, để mai sau được vào Nước Trời chiêm ngưỡng Chúa Ki-tô là Thiên Chúa hằng
sống và hiển trị cùng Chúa hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giê-su
Ki-tô Chúa chúng con.