Thứ ba, sau
Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh
“Tôi ban cho chúng sự
sống đời đời”
(Ga 10, 22-30)
1. Chiên của tôi thì
nghe tiếng tôi
Người Do thái muốn biết Đức Giê-su có phải là Đấng Ki-tô hay
không: “Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là
Đấng Ki-tô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết” (c. 24); và để trả lời, Đức
Giê-su dùng hình ảnh mục tử và đàn chiên. Nhưng, nếu trước đó trong bài Tin
Mừng hôm qua (c. 11-18), Ngài nhấn mạnh đến hành động hi sinh mạng sống của vị
Mục Tử nhân lành, thì trong bài Tin Mừng này, ngài nhấn mạnh đến hành động
thông truyền sự sống:
Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi Tôi
ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai
cướp được chúng khỏi tay tôi.
Như thế, chính khi Người Mục Tử nhân lành hi sinh mạng sống
vì đàn chiên, là lúc Ngài thông truyền sự sống đời đời; và sự sống này mãi mãi
bền vững và đứng vững trước mọi nguy hiểm. Thế mà, trong mầu nhiệm Thương Khó, Đức
Giê-su đã thực sự hi sinh sự sống và thông truyền sự sống của Ngài cho chúng ta
rồi. Xin cho chúng ta biết đón nhận và cảm nếm sự sống kì diệu này mỗi ngày khi
cử hành và tham dự Thánh Lễ.
Ngoài ra, chúng ta cũng được gọi dừng lại và cảm nếm hình
ảnh “con chiên”, là chính chúng ta. Đức Ki-tô là Mục Tử nhân lành, còn chúng ta
là “chiên” của Ngài; “con chiên”, tự bản chất cũng hiền lành, như vị Mục Tử
hiền lành. Vì thế, tự bản chất, “chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết
chúng và chúng theo tôi”.
Vì thế, chính khi chúng ta đánh mất “bản chất hiền lành”,
nhất là khi chúng ta tự biến mình thành “dê” hay “sói dữ”, thì khi đó chúng ta
sẽ không còn nghe được tiếng Đức Giê-su nữa, không tin và theo Ngài nữa. Và đó
chính là trường hợp của những người Do Thái, đang chất vấn Đức Giê-su: “Nhưng
các ông không tin, vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi.” (c. 26)
2. “Các ông không thuộc đoàn chiên của
tôi”
Đức Giêsu đã nói những gì chân thật nhất và sâu xa nhất về
Ngôi vị của Ngài, về tương quan của Ngài với Chúa Cha và với loài người. Nhưng
khi nghe những lời này của Đức Giê-su, người Do Thái đã không tin. Ngài cũng đã
làm nhiều điều, nhất là các dấu chỉ nhân danh Chúa Cha; và trong bối cảnh mà
Tin Mừng Gioan thuật lại cho chúng ta, dấu chỉ mới nhất và rất lớn là cho người
mù bẩm sinh trở nên sáng mắt và nhất là sáng lòng (Ga 9, 1-41); chứng kiến các
dấu chỉ, người Do Thái vẫn không tin!
Đức Giêsu nêu ra nguyên do tại sao người Do Thái không có
khả năng tin vào Ngài: “vì các ông không thuộc đoàn chiên của tôi” (c. 26). Lí
do Đức Giê-su đưa ra thật lạ lùng: phải thuộc về đoàn chiên của Ngài, nghĩa là
Ngài biết chúng ta và chúng ta đi theo Ngài, thì khi nghe những gì Ngài nói và
chứng kiến những gì Ngài làm, chúng ta mới nhận ta Ngài và tin nơi Ngài. Thuộc
về đoàn chiên của Đức Kitô, là đã tin rồi. Như thế, điều kiện của đức tin là
phải tin.
Lạ lùng, nhưng đó lại là kinh nghiệm về hành trình đức tin
của chính chúng ta và kinh nghiệm về hành trình đức tin của những người mà
chúng ta có sứ mạng đồng hành.
Ø Tất cả những ai đi tìm ánh sáng và
sống theo ánh sáng (thay vì bóng tối), thì sẽ nhận ra Đức Kitô là ánh sáng.
Ø Tất cả những ai đi tìm Sự Thật và
sống theo sự thật (thay vì Gian Dối), sẽ nhận ra Đức Kitô là Sự Thật.
Ø Tất cả những ai ước ao Sự Sống và
sống theo năng động sự sống (thay vì sự chết), sẽ nhận ra Đức Kitô là Sự Sống.
Ø Cũng vậy, đối với những ai khát khao
và sống theo Sự Thiện, Vẻ Đẹp đích thật và những điều thuộc về nhân tính, những
điều cao quí.
Nói cách khác, vì con người được dựng nên theo hình ảnh của
Thiên Chúa, nên tất cả những ai sống theo hình ảnh Thiên Chúa vốn có một cách
sâu xa ở nơi mình, thì đã thuộc về đoàn chiên của Đức Kitô rồi, hai bên như đã
biết nhau rồi.
3. Hoa trái của niềm tin
Người ta cứ đòi Đức Giê-su nói về căn
tính Ki-tô của mình : « Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ?
Nếu ông là Đấng Ki-tô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết » (c. 24), nhưng khi
ngài mặc khải : « Tôi và Chúa Cha là một », thì người ta không
chỉ không tin, nhưng còn lên án Ngài phạm thượng : « Chúng tôi ném đá ông, không phải vì
một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự
cho mình là Thiên Chúa » (c. 33). Đó chính là “tội danh” trong cuộc xử án của Thượng Hội Đồng,
dẫn Ngài đến án tử.
Chúng ta có thể tự hỏi tại sao người
ta lại muốn giết Chúa bằng cách ném đá, và sau này trong cuộc thương khó, bằng
hình phạt khủng khiếp nhất, là đóng đinh vào Thập Giá. Đó là năng động của hành
vi không tin: Tôi không tin người này là Con Thiên Chúa, vậy thì giết nó đi,
xem coi nó có thể tự cứu mình, hay Thiên Chúa có cứu nó không. Như thế, không
tin, sẽ tất yếu dẫn đến những hành vi dò xét, tố cáo và hành động bạo lực, nhằm
chứng minh điều mình không tin là đúng; không tin sự sống, người ta sẽ tất yếu
làm việc cho sự chết. (x. Tv 22, 9 và Kn 2, 17-20)
Đức tin của chúng ta được chứng thực, không phải bằng những
lí lẽ hay bằng chứng, nhưng bằng những hoa trái sự sống: hiệp nhất, yêu thương,
tha thứ, nhìn nhận nhau là con một Cha, là anh chị em của nhau.
Xin cho những hoa trái sự sống của đức tin, củng cố đức tin
của chúng ta nơi Đức Giê-su, là Đấng Ki-tô, là Mục Tử nhân lành, là Con Thiên
Chúa Hằng Sống.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc