CHỦ NHẬT 2 PHỤC SINH A
Bình an cho các con !

Mùa Phục sinh gọi dậy và canh tân
đức tin của chúng ta. Chúng ta hãy cầu xin Chúa đến giúp chúng ta sống tốt hơn
trong Phép Rửa tuyệt vời và cao cả mà chúng ta đã lãnh nhận. Xin Chúa Thánh
Thần sinh động đức tin, gia tăng tình yêu và làm cho niềm Hi vọng được lớn mạnh
trong chúng ta.
Sách
Công vụ 2, 42-47
Mọi người đều nhận biết người ki
tô hữu tiên khởi nhờ tình yêu mà họ sống với nhau. Nhờ lắng nghe Lời Chúa mà họ
tiếp nhận nhau không loại trừ ai. Họ cầu nguyện chung, cử hành Thánh Thể, chia
sẻ của cải và số tín hữu ngày càng tăng. Những người Ki tô Hữu tiên khởi ấy sẽ
nhận ra chúng ta là anh em của họ không?
Chúng ta hãy so sánh cách sống của họ với cách sống của chúng ta!
Thánh
Vịnh 117
Vâng, chúng ta đừng ngần ngại mà
tung hô Chúa: “Ngài tốt đẹp biết mấy vì
đã ban cho chúng ta Đấng Cứu độ như thế!” Viên đá bị những người thợ xây
loại bỏ đã trở nên Viên Đá Gốc xây dựng Giáo Hội. Tình yêu của Ngài thật cao
cả!
Thư
1 Phêrô 1, 3-9
Thánh Phê rô khuyến khích các tín
hữu đang gặp nhiều khó khăn ghê gớm. Ngài khuyên nhủ họ hãy để cho Niềm Hi vọng
trong họ được chiếu sáng, bởi vì niềm Hi vọng đó chính là Đức Ki tô đang Sống,
Đấng Sống lại. Một niềm hi vọng như vậy không có biên giới và lời chứng của các
ki tô hữu là một bảo chứng ơn Cứu độ cho toàn thể nhân loại. Đà sống và bước
tiến về phía trước mà niềm Hi vọng đó mang lại sẽ biến đổi và dẫn đến Ơn Cứu
độ. Halleluia!
Tin mừng: Ga 20, 19-23
NGỮ CẢNH
Đoạn tin mừng nầy nằm
trong chương cuối cùng của Tin mừng Gioan với lời kết ở cc. 30-31 nói về mục
đích sứ mạng của Chúa Giê su nơi trần gian. Chương 20 mở đầu với việc các người
phụ nữ (1-2), rồi tới các môn đệ (3- 10) chạy đến mồ và khám phá ngôi mộ trống.
Tiếp sau là việc Chúa Giê su Phục sinh hiện ra với Maria Mác đa la và đã trao
cho bà sứ mạng báo tin mừng phục sinh cho các môn đệ (11-18). Vào buổi chiều
ngày Phục sinh nầy, Chúa Giê su đến gặp các môn đệ đang khi các ông còn sợ hãi,
ẩn trốn trong nhà đóng kín. Sau khi đã trấn an và khơi lại niềm tin, Chúa Giê
su trao cho các ông sứ mạng loan báo ơn tha tội và ơn bình an.
TÌM HIỂU
Trong bốn sách Tin Mừng,
chóp đỉnh của các trình thuật Chúa Giê su sống lại là việc Người hiện
ra cho nhóm Mười Một qui tụ ở một nơi. Dù cho hoàn cảnh và các chi tiết
có khác nhau, thì lời khẳng định vẫn luôn luôn là một. Và tác giả nào cũng nhấn
mạnh đến sự thử thách của đức tin. Riêng đối với Gioan trong câu chuyện
về ông Tôma, ngài đề cao sự tiến triển đức tin vào Chúa Giê su sống
lại qua hai giai đoạn. Và trình thuật khép lại với một vài khẳng định cốt yếu:
ơn ban Thánh Thần, sự tha tội, sai đi truyền giáo, niềm tin hoàn toàn vào Chúa
Giê su, là Chúa và là Thiên Chúa.
Vào chiều ngày ấy: bà Maria Mác đa la đi ra mồ từ “sáng sớm”
(20,1). Đối với nhóm Mười Một, một ngày dài căng thẳng đã trôi qua trước cuộc hội
ngộ nầy. Các cuộc hiện ra của đấng Phục sinh với các môn đệ đều diễn ra vào buổi
chiều (6,16; 13-17), nhưng cũng còn trong ngày thứ nhất (20,1.26).
Các cửa đều đóng kín: niềm tin của Mác đa la đầy sự ngẫu hứng và tình
cảm. Bà đi thẳng đến với Chúa và đã gặp thấy Ngài. Còn các môn đệ thì khác, họ
còn chưa hết “sốc” bởi nỗi sợ hãi người Do thái; dù có những bước chân của
Phêrô và Gioan, họ vẫn còn ẩn trốn trong nhà. Vì thế Chúa Giê su cần phải cho họ
xác tín là Ngài đã sống lại. Các trình thuật nầy có lẽ phản ánh nỗi khó
khăn mà Giáo hội đang gặp phải: một vài người mạnh dạn đến với Chúa,
trong sự đơn sơ của niềm tin; một số khác thì chậm chạp hơn vì nhiều thử thách
mà cộng đoàn phải vượt qua.
Chúa Giê su đứng giữa các ông: “Đâu có hai hay ba người tụ họp nhân danh ta, có ta ở giữa họ” (Mt
18,20).
“Bình an cho anh em”: lời chào được lặp lại ở câu 21. Đó là lời chào hỏi
bình thường trong ngôn ngữ sê mít. Tuy nhiên, bình an là một khái niệm giàu ý
nghĩa, bao hàm toàn bộ những gì mang lại hạnh phúc cho cuộc sống. Sự bình an của
thời đại cánh chung là một ơn ban quí giá nhất mà Thiên Chúa ban cho con người
đã được các tiên tri loan báo. Ơn bình an được ban xuống là nhờ những nỗi khổ
đau mà người Tôi Tớ đã phải gánh chịu: “Chính
người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người
đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta
được chữa lành” (Is 53,5).
Khi Chúa Giê su xuất hiện ở
giữa các môn đệ của Ngài, không những Ngài cầu chúc, mà còn ban cho sự bình an
(x.14,27; 16,33). Sau nầy Phao lô sẽ nói về Đức Ki tô rằng: Ngài qui tụ các kẻ
thuộc về Ngài trong chính sự chết và sự phục sinh của Ngài: “Ngài là chính sự bình an của chúng ta”
(Ep 2,14).
Xem tay và cạnh sườn: như ở
Luca 24,39, Chúa Giê su muốn liên kết các nỗi đau khổ mà Ngài đã chịu với cuộc
phục sinh của Ngài, khi tỏ cho thấy các vết thương. Chỉ có Gioan đề cập ba lần
(ở đây và cc, 25-27) đến vết thương cạnh sườn Ngài (x. 19,34-37).
Vui mừng: giờ đây mọi sự đã thay đổi. Với sự phục sinh, lời cầu nguyện
của Chúa Giê su dâng lên Cha đã được chấp nhận: “Để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con” (Ga 17,l3).
Chúa : kiểu xưng hô diễn tả lòng tin vào Chúa Giê su phục sinh
(20,18)
Thầy cũng sai anh em: Chúa Giê su hiện ra với các môn đệ của Ngài
không chỉ để gợi lại cho họ kí ức về Ngài, nhưng còn để sai phái họ ra đi. Cả bốn
tin mừng đều gặp nhau ở điểm đó (Mt 28,19; Mc 16,15; Lc 24,47; x. Cv 1,8).
Sứ mạng đó là một trong những
đối tượng các lời cầu nguyện của Chúa Giê su cho các môn đệ của Ngài (17,18).
Và cũng nhằm nối tiếp sứ mạng mà Ngài đã lãnh nhận từ nơi Chúa Cha. Chúa Giê su
lặp lại “Bình an cho các con”. Ra đi
vào thế gian, họ mang theo mình sự bình an của Thiên Chúa.
Thổi hơi: đối với Gioan, cử chỉ nầy là dấu chỉ đưa đến một thực tại
sâu xa hơn. Hơi thở mà Chúa Giê su khi sinh thì, đã trao lại trên thánh giá
(19,30) là hơi thở của Thiên Chúa, tức là Thánh Thần. Ơn ban Thánh Thần đó được
liên kết mật thiết với cái chết và sự phục sinh của Ngài. Luca bố trí biến cố
Thánh Thần hiện xuống năm mươi ngày sau (Cv 2,1-4), cũng đặt mối tương quan đó
trong một lời Chúa Giê su hứa cho các môn đệ vào chính ngày Phục sinh (24,49).
Với sự phục sinh Chúa Giê
su, lịch sử cứu độ đạt tới giai đoạn cuối cùng. Vào thuở khai thiên lập địa,
Thiên Chúa đã “thổi sinh khí”
(Stk 2,7) vào lỗ mũi người nam. Chúa Giê su phục sinh ngự tại trung tâm thế giới
mới mà Ngài đã tái sinh bằng cách thông truyền hơi thở của chính Thiên Chúa để
cho thế giới được sống.
Tha tội: sứ mạng truyền giáo bao hồm việc tha tội (x. Lc 24,47). Từ đầu
sách tin mừng Gioan là một lời mời gọi tiếp nhận sự sống ngang qua niềm tin vào
Chúa Giê su; do đó, tội lỗi căn bản chính là sự từ chối tin. Gia nhập vào cộng
đoàn các tín hữu, những người có niềm tin vào Chúa Giê su phục sinh, có nghĩa
là xác nhận rằng tội riêng đã được tha thứ.
Cầm giữ ai: tha thứ-cầm giữ chỉ là hai mặt song đối nơi sứ mạng duy nhất
của Chúa Giê su hoàn toàn hướng về ơn cứu độ (3,16-17; 5,20-30). Quyền năng
giao phó cho các môn đệ không phải là quyền giam hãm con người trong tội lỗi của
họ.
Tô ma: trong khi các tin mừng khác đề cập đến sự hồ nghi nơi các
môn đệ trước việc Chúa Giê su sống lại, thì Gioan theo thói quen, nhân cách hoá
câu chuyện (một người hồ nghi).
Mười Hai: nhóm Mười Hai là nhóm các nhân chứng đức tin, chỉ được Gioan
gợi lại ở đây và ở đoạn 6,67-71.
Chúng tôi đã được thấy: sứ điệp đi ngay vào điểm cốt yếu của lời chứng,
như trong câu nói của Maria Mác đa la (20,18).
Nếu tôi không thấy: “thấy” và “tin” là hai động tác căn bản của
con người đối với Chúa Giê su phục sinh (20,8.18). Sự đòi hỏi của Tôma chuẩn bị
cho giáo huấn của Chúa Giê su (20,29).
Dấu đinh: chi tiết gợi nhớ về cuộc khổ nạn được nhấn mạnh
và được lặp đi lặp lại (20,20.27). Chúa Giê su đã thực sự chịu đau khổ cho đến
chết. Nếu Ngài sống lại thì cũng vì Ngài đã chấp nhận trao ban sự sống (x.
12,25).
Tám ngày sau: ngày này đối với người ki tô hữu được coi như khởi
đầu tạo thành mới, loan báo trước ngày của Chúa, khi tạo thành ngày thứ nhất sẽ
đạt tới mức độ hoàn tất.
Cạnh sườn Thầy: đối với Gioan, vết thương ở cạnh sườn mang một ý
nghĩa quan trọng. Nó mời gọi nhận ra nơi Chúa Giê su là đấng hoàn tất Thánh
Kinh.
Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!: sách Tin mừng không nói
là ông Tôma đã đáp lại lời mời gọi của Chúa Giê su và đã xỏ bàn tay vào các vết
thương. Chỉ nguyên việc gặp gỡ Chúa Giê su phục sinh đã biến người cứng lòng
tin số một trở thành mẫu mực và phát ngôn viên cho tất cả mọi người tín hữu.
Tôma đồng hóa Chúa Giê su với Chúa của Israel, với Thiên Chúa của mọi tín hữu.
Phúc:
mối phúc nầy được chuẩn bị bởi hai trình thuật đi trước. Chính việc được thấy
là đặc ân dành cho một vài người, bởi vì họ đã được chọn trước làm chứng nhân
cho Đức Ki tô và xây dựng Hội Thánh. Nhưng tất cả các tín hữu được mời gọi nhận
biết Chúa Giê su phục sinh mà không
được phúc nhìn thấy Ngài. Người môn đệ được Chúa Giê su yêu mến đã không cần
nhìn mới tin (20,8). Ông thật có phúc, và cùng với ông, tất cả những người
trong Hội Thánh biết tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giê su phục sinh nhờ chứng tá
của nhóm Mười Hai và nhờ lời tuyên xưng của ông Tôma (1Pr 1,8).
SỨ ĐIỆP
Hôm nay là “Chủ nhật tôn
kinh Lòng Thương Xót Chúa”, được Đức Giáo Hoàng Gioan Phao lô II thiết lập vào
ngày 30 tháng 4 năm 2000 khi phong thánh cho Chị Nữ tu Faustina và truyền cho
toàn thể Giáo Hội hằng năm mừng kính vào ngày Chủa Nhật thứ hai Phục sinh. Các
bài đọc trong Thánh lễ giúp chúng ta nhận biết lòng thương xót của Chúa Giê su
mãnh liệt như thế nào. Tin mừng kể cho chúng ta câu chuyện về các môn đệ. Các
ông ẩn mặt trong nhà đóng kín cửa vì sợ người Do thái. Còn Chúa Giê su, thầy của
họ vừa bị bắt, bị hành hạ và giết chết trên thánh giá. Phê rô sợ hãi đến nỗi đã
chối Thầy mình. Chính trong hoàn cảnh đó mà Chúa Giê su Phục sinh hiện ra để
ban bình an cho họ.
Sứ điệp bình an là điều mà
chúng ta phải đón nhận và làm chứng trong thế giới hôm nay. Một thế giới trở
thành sân khấu liên tiếp diễn ra những cuộc xung đột tàn khốc và đẫm máu. Tiếng
súng đã và vẫn còn vang lên khắp nơi trên thế giới. Bạo lực vẫn ngự trị. Nhiều
người bị bắt và bị cầm giữ nhiều tháng trong những điều kiện vô cùng thiếu thốn!
Đã có người bị hành quyết một cách dã man. Tại vùng đất thánh, nền hòa bình được
mong đợi từ lâu vẫn chưa ló dạng.
Là Ki tô hữu, chúng ta biết
rằng tất cả những biến cố đầy chết chóc ấy hoàn toàn đi ngược với sứ điệp Phục
sinh. Qua sự sống lại, Đức Ki tô mở ra cho chúng ta một con đường mới. Ngài cho
chúng ta tiến lại gần hơn với sự sống. Với Ngài, chúng ta không còn có thể sống
như trước kia nữa. Trên thánh giá, Ngài đã tha thứ, Ngài đã thương xót; và Ngài
tin tưởng và chờ đợi chúng ta cũng sẽ hành động như thế. Chúng ta chỉ là môn đệ
của Ngài khi chúng ta chấp nhận thực hiện những cử chỉ bình an và hòa giải với
những người chung quanh. Trong một vài trường hợp, điều đó có thể khó khăn, nhất
là khi người ta đã bị tổn thương nặng nề. Vì thế chúng ta đặt tất cả những điều
dó trong tay của Chúa và xin Ngài chấp nhận ước muốn tha thứ của chúng ta.
Sau khi đã chịu khổ nạn và
chịu chết trên thánh giá. Chúa Giê su đi gặp lại các môn đệ của mình để đem
bình an đến cho họ. Nhiều lần, Ngài phán với họ: “Bình an ở cùng các con”. Điều ấy cho thấy rằng Ngài gán một tầm
quan trọng đặc biệt cho sự bình an và muốn lôi kéo mọi người chú ý đến một điều
rất cấp thiết nhưng rất thiếu thốn cho nhân lại. Chúa Giê su phục sinh xác định
rằng chúng ta có thể vượt thắng mọi cái chết, mọi hận thù, mọi chiến tranh và
tàn phá. Khi ban sự sống trên thánh giá, Ngài “đã tiêu diệt sự hận thù”.
Sự ghen ghét và hận thù ấy
thường ngự trị trong chúng ta và làm cho chúng ta phải đau khổ, thế nên chúng
ta được mời gọi đặt tất cả dưới chân thánh giá Đức Ki tô. Ngài muốn giải thoát
chúng ta khỏi những điều ấy. Vấn đề là nhiều khi chúng ta không muốn từ bỏ những
miếng bánh hấp dẫn. Vì thế, chúng ta tiếp tục đau khổ và làm cho người khác đau
khổ. Chúng ta từ chối sự bình an mà Chúa muốn ban cho chúng ta và cho thế giới.
Nhưng nơi nào tội lỗi đầy tràn, nơi đó ân sủng càng chan chứa. Không gì có thể
ngăn cản Đức Ki tô muốn giải thoát chúng ta.
Trong mùa Phục sinh nầy,
Chúa sống lại ban cho chúng ta món quà bình an của Ngài. Chúng ta hãy đón nhận
như một di sản và cũng như một sứ mạng phải chu toàn. Một ngày nọ, Chúa Giê su
đã nói: “Phúc cho những ai tác tạo hòa
bình”. Thật dễ dàng khi than phiền về những điều xấu xa xảy ra đây đó trên
thế gian rồi khoanh tay đứng nhìn không làm gì cả. Cần phải xắn tay áo lên để
chung tay kiến tạo hòa bình. Tác tạo hòa bình bắt đầu bằng việc duyệt xét lại
cách xử sự của chúng ta trong cuộc sống hằng ngày. Rồi tiếp tục bằng việc thay
đổi cái nhìn cũng như lời nói về những người mà từ lâu chúng ta khó chấp nhận.
Điều xấu mà chúng ta nói chống lại kẻ khác sẽ gây xáo trộn và làm ô nhiểm cộng
đòan. Ngày Chủ nhật của lòng Thương xót nầy, chúng ta phải quan tâm đến tất cả
những gì có thể kiến tạo bình an cho cộng đòan chúng ta.
Tiệc Tạ ơn qui tụ chúng ta
chính là bí tích mang lại bình an. Qua ơn ban sự sống, Chúa Giê su hòa giải
chúng ta với Thiên Chúa, với anh em và với chính mình. Chúng ta tiếp tục cầu
nguyện không ngừng cho nền hòa bình được ngự trị trên khắp thế giới, đặc biệt ở
những nơi mà những cố gắng con người đã thất bại. Chỉ nơi Đức Ki tô phục sinh
chúng ta mới tìm được bình an đích thực. Chúng ta hãy đến kín múc nơi Ngài sức
mạnh cần thiết để làm chứng nhân và làm sứ giả cho sự hòa bình ấy. Xin Ngài
khơi lại lòng trung thành và tình yêu của chúng ta.
ĐÀO SÂU
PHÚC CHO AI KHÔNG THẤY MÀ TIN
Cv 2,42-47 Cộng đoàn huynh đệ
Tv 118,1 Tình yêu Ngài thiên thu vạn đại
!
1Pr 1,3-9 Niềm hi vọng của những người
đã chịu phép Rửa
Ga 20,19-31 Đức Giê-su hiện ra tám ngày
sau khi sống lại
1. HỎI: Các bài đọc được liên kết theo chủ đề gì?
THƯA: PHÚC CHO AI KHÔNG THẤY MÀ TIN. Trong lần hiện ra cho các Tông
đồ, đặc biệt với ông Tô-ma, Đức Giê-su tuyên phúc cho những ai dù không thấy
Ngài nhưng vẫn tin vào Ngài (BTM). Niềm tin ấy đã mang lại hạnh phúc cho công
đoàn Ki tô hữu đầu tiên (Bđ1), và niềm hi vọng cho những người đã chịu phép Rửa
(Bđ2).
2. HỎI: Nội dung bài đọc một (Cv 2,42-47) như thế nào?
THƯA: Bài đọc một trích từ sách Công vụ, chương 2, 42-47, cho chúng
ta một cái nhìn tổng quát về đời sống tuyệt vời chan chứa tình yêu thương của cộng
đoàn tiên khởi.
3. HỎI: Cuộc sống ấy có những đặc điểm nào?
THƯA: Cuộc sống tuyệt vời ấy có những đặc điểm nầy:
1 - Chuyên cần lắng nghe lời
giáo huấn các tông đồ.
2 - Siêng năng tham dự lễ
bẻ bánh và cầu nguyện.
3 - Tích cực hiệp thông và
quảng đại chia sẻ.
4 - Có nhiều dấu chỉ do
các tông đồ thực hiện nhân danh Chúa Ki tô.
Một hình ảnh rất lí tưởng,
dù vẫn còn nhiều mảng tối (x 5,1-11; 6,1-7).
4. HỎI: Qua đó, Thánh Lu-ca muốn gửi đến thông điệp gì?
THƯA: Qua hình ảnh tuyệt vời của cộng đoàn tiên khởi, Thánh Lu-ca muốn
nói rằng thời đại thiên sai đã đến. Thánh Thần đã giúp cho các tông đồ sống với
nhau như anh em. Tình huynh đệ, sự bình an, sự công chính, sự dữ bị tiêu diệt
đó là những giá trị đến từ Vương quốc Thiên Chúa do Đấng Mê-si-a thiết lập. Điều
đó chứng thực Đức Giê-su chính là Đấng Mê-si-a.
5. HỎI: “Mọi người đều
kinh sợ” (2,43) có nghĩa gì?
THƯA: Có nghĩa là mọi người đều ngưỡng mộ việc làm của Thiên Chúa
qua tay các Tông đồ. Đó là những dấu chỉ cho thấy Nước Thiên Chúa đang hiện diện,
Thánh Thần hướng dẫn trong ánh sáng phục sinh. Kể từ khi Đức Ki-tô sống lại,
nhân loại mới được sinh ra, dần dần lớn lên chung quanh và theo hình ảnh Con
Thiên Chúa.
6. HỎI: Bài đọc đề ra chương trình sống của Ki tô hữu như thế
nào?
THƯA: Chương trình sống gồm bốn điểm: lắng nghe giáo huấn các tông đồ,
sống hiệp thông trong tình huynh đệ, siêng năng tham dự Thánh lễ, và cầu nguyện.
7. HỎI: Bài đọc nầy loan báo tin mừng gì?
THƯA: Tin mừng lớn nhất từ bài đọc nầy là người ta hoàn toàn có thể
sống cuộc sống mới do Thánh Thần tác động.
8. HỎI: Tại sao Thánh Lu-ca đề cao việc tham dự lễ bẻ bánh?
THƯA: Vì ba lí do: trước tiên thánh lễ là một sự cần thiết cho đời sống
chứ không chỉ là sự bó buộc. Thứ hai cộng đoàn sẽ thiếu một phần tử khi một người
tín hữu không tham dự Thánh lễ. Thứ ba đời sống cộng đoàn sẽ bị thiệt hại lớn
khi không có thánh lễ thường xuyên.
9. HỎI: Nội dung bài đọc 2 (1Pr 1,3-9) như thế nào?
THƯA: Thánh Phê-rô nhắc cho tín hữu nhớ niềm hi vọng mà họ đã lãnh
nhận từ Thiên Chúa khi được trở thành con cái Ngài.
10. HỎI: Ngữ cảnh bài tin mừng (Ga 20,19-31) như thế nào?
THƯA: Đoạn tin mừng nầy thuộc chương 20 tin mừng Gio-an, trong phần
nói về Giờ của Đức Giê-su. Vào buổi sáng, Phê-rô và Gio-an chạy đến ngôi mồ trống
và Đức Giê-su hiện ra với Maria Mác-đa-la (20,1-18). Rồi đến chiều, Ngài lại hiện
ra với nhóm môn đệ không có Tô-ma (20,19-23) và tám ngày sau có Tô-ma (24-29).
11. HỎI: Đối với người ki tô hữu, ngày thứ nhất trong tuần có
gì đặc biệt?
THƯA: Đối với người Do thái, thì ngày chủ nhật là ngày làm việc như
các ngày khác, chỉ có ngày thứ bảy mới là ngày nghỉ lễ, ngày qui tụ để cầu nguyện
thờ phượng Thiên Chúa. Còn đối với người Ki tô, thì ngày chủ nhật họ qui tụ để
bẻ bánh nhằm kỉ niệm ngày Đức Giê-su sống lại và được coi như khởi đầu cuộc Tạo
dựng mới.
12. HỎI: Thánh Gio-an nhấn mạnh điều gì khi nói các môn đệ
đóng kín cửa vì sợ người Do thái.
THƯA: Thánh Gio-an muốn làm nổi bật sự tự do của Đức Giê-su. Cửa nhà
bị khóa chặt nhưng không thành vấn đề với Đức Giê-su. Ngài không cần biết đến các
cửa đóng kín cũng như nỗi sợ hãi của các môn đệ.
13. HỎI: Có mối tương quan nào giữa ơn ban Thánh Thần và sứ mạng
hòa giải nơi các môn đệ không?
THƯA: Thưa có. Trong Kinh Thánh, Thánh Thần được ban xuống nhằm cho
một sứ mạng, và không có sứ mạng nào quan trọng hơn sứ mạng hòa giải con người
với Thiên Chúa, vì tất cả những điều còn lại đều phát xuất từ đó.
14. HỎI: Cửa đóng kín mà
Đức Giê-su vẫn vào nhà được, có nhờ một lối vào bí mật chăng?
THƯA: Không,
chẳng có một cửa bí mật nào cả. Dù cửa đóng kín Đức Giê-su vẫn vào được bởi vì
từ nay thân xác vinh quang của Ngài mặc lấy chiều kích Thần linh, thuộc về thế
giới cánh chung. Cách hiện diện mới của Ngài không còn bị chướng ngại vật nào
cản trở.
15. HỎI: “Bình an cho các con” có ý nghĩa gì?
THƯA: Lời
chào bình an là lời chào thông thường của người Do thái. Nhưng với Đức Ki-tô
phục sinh, thì lời chào ấy vượt quá ý nghĩa thông thường của nó. Ngài chào chúc
và ban cho các môn đệ sự Bình an và niềm vui đặt biệt có thể giúp họ vượt thắng
thử thách của thánh giá và những hậu quả kèm theo trong cuộc đời của họ (14,17)
16. HỎI: Tại sao Đức
Giê-su trỏ cho các tông đồ xem các dấu vết thương khó của Ngài?
THƯA: Đức
Giê-su trỏ các vết thương của Ngài là muốn cho các tông đồ nhìn thấy và tin
chắc rằng Ngài đã sống lại thật.
17. HỎI: Tại sao Đức
Giê-su lại cầu chúc bình an lần thứ hai?
THƯA: Ngài
muốn liên kết sự bình an và niềm vui với cuộc khổ nạn cứu chuộc của Ngài. Khổ
nạn mà không có bình an và niềm vui phục sinh là khổ nạn chưa được cứu chuộc và
chỉ đưa đến sự chết, còn niềm vui mà không qua khổ nạn cứu chuộc là niềm vui
phàm tục, mau qua chóng hết và không phải là niềm vui vĩnh cữu mà Đức Ki-tô
phục sinh muốn đem lại cho con người.
18. HỎI: Sứ mạng mà Đức
Ki-tô phục sinh giao phó cho các tông đồ là sứ mạng nào
THƯA: Đó
là sứ mạng mà chính Ngài đã lãnh nhận từ nơi Chúa Cha: “Như Cha đã sai Ta, Ta cũng sai các con”. Từ nay, các tông đồ tiếp
nối sứ mạng của Ngài là loan báo sự chết và sống lại cứu độ của Ngài cho toàn
thể nhân lọai. Ai tin thì được Thiên Chúa ban sự sống đời đời (Ga 20,31).
19. HỎI: Chúa phục sinh
ban tặng điều gì cho các môn đệ của Ngài?
THƯA: Khi
ban Bình an cho các môn đệ (c. 19 “Bình
an cho các con!”) Đức Giê-su phục sinh ban cho họ:
-
Thánh Thần (c.22: “Hãy lãnh nhận Thánh Thần”),
-
Mạc khải đầy đủ về Thiên Chúa, và về đấng Tạo hóa.
-
Ngòai ra, Ngài muốn rằng Giáo Hội của Ngài là giáo hội có phẩm trật (c. 21 “Thầy cũng sai anh em đi..”), để được
hiệp nhất, và đi trong chân lí của Tin mừng.
-
Quyền tha tội để củng cố Giáo Hội (c.23 “Tha
tội cho ai, thì người ấy được tha, cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”).
-
Sự hiệp thông giữa các tông đồ với thánh Phê rô, cũng như với các đấng kế vị:
các Giám mục hiệp thông với Đức Giáo Hoàng (Mc 3,13-15)
20. HỎI: Thánh Gio-an quả
quyết rằng không phải tất cả những gì Đức Giê-su đã làm đều được chép trong các
sách Tin mừng?
THƯA: Thiên
Chúa đã muốn những gì cần thiết cho ơn cứu độ phải được truyền đến cho chúng
ta. Tuy nhiên, “điều thiết yếu ấy” không chỉ nằm trong Kinh Thánh mà còn trong
Thánh Truyền nữa. Thánh truyền chuyển đến cho chúng ta những lời chứng và suy
tư về Biến cố Đức Ki tô, không minh nhiên được nói đến trong Tân Ước.
21. HỎI: Là những tín hữu
hôm nay, chúng ta phải làm gì để biểu hiện phúc lành mà Đức Giê-su ban cho: “Phúc cho những ai đã không thấy mà tin không”?
THƯA: Chúng
ta không chỉ cao rao mối phúc lành đó cho mọi người biết, mà phải cố gắng làm
thế nào để kinh nghiệm của Thánh Tô-ma trở thành kinh nghiệm của chính mình:
chúng ta phải khao khát nhìn thấy quyền năng của sự Sống lại biểu hiện trong cuộc
sống cá nhân hay tập thể của chúng ta; và nhất là khẩn cầu cho mọi người được
ơn ban Bình an cứu độ của Đức Ki tô phục sinh.
20. HỎI: Thực hiện sứ điệp
Lời Chúa như thế nào?
THƯA: 1.
Sự phục sinh của Đức Ki-tô là nguồn mang lại niềm vui. Xin cho cuộc đời ki tô hữu
được phản ánh niềm vui ấy. 2. Sự phục sinh của Đức Ki-tô là nguồn hiệp thông
huynh đệ và yêu thương. Xin cho cộng đoàn chúng ta biết san sẻ cho nhau những
nhu cầu thiết yếu như là dấu chỉ yêu thương của người môn đệ Đức Ki-tô. 3. Sự
phục sinh của Đức Ki-tô thông ban niềm tin vào chiến thắng và vinh quang của
Ngài. Xin cho dân Chúa được vững tin và tràn đầy hi vọng trên đường về Nước
Chúa.
GLCG
656. Phục Sinh vừa là một biến cố lịch sử đươc các môn đệ chứng thực vì
họ đã thực sự gặp Đấng Phục Sinh, vừa là biến cố siêu việt vì nhân tính của Đức
Ki-tô đi vào trong vinh quang Thiên Chúa.
657.
Ngôi mộ trống và những băng vải xếp ở đó nói lên rằng: nhờ quyền năng của Thiên
Chúa, thân xác của Đức Ki-tô thoát khỏi xiềng xích sự chết và sự hư nát. Những
chứng cứ trên chuẩn bị các môn đệ gặp gỡ Đấng Phục Sinh.
658.
Đức Ki-tô, "trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại" (Cl
1,18), là nguyên lý sự sống lại của chúng ta: ngay trong hiện tại, Người công
chính hóa linh hồn chúng ta (x.Rm 6,4), và sau này cho thân xác chúng ta được sống
lại (x.Rm 8,11).