Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật Phục Sinh A
Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9
ÔNG ĐÃ THẤY VÀ
ĐÃ TIN MẦU NHIỆM CHÚA PHỤC SINH
I. HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Ga 20,1-9
(1) Sáng sớm ngày Thứ
Nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy
tảng đá lăn khỏi mộ. (2) Bà liền chạy về gặp Simon Phê-rô và người môn đệ thương mến. bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi
khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu ?”. (3) Ông Phê-rô và môn đệ
kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy, nhưng môn đệ kia mau hơn ông
Phê-rô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở
đó nhưng không vào. (6) Ông Simon Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong
mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu, khăn này không để lẫn với
các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ
kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy,
trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.
2. Ý CHÍNH:
Gio-an viết Tin Mừng nhằm mục đích “Để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và
để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (ga 20,31). Riêng đoạn Tin Mừng
hôm nay, Gio-an cho thấy Đức Giê-su thực sự đã từ cõi chết sống lại như Người
đã báo trước.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1: + Ngày Thứ Nhất trong tuần: Theo Sáng Thế Ký, thì một tuần lễ có bảy ngày. ngày Thứ Nhất là ngày
sau ngày Sa-bát và bắt đầu một tuần lễ. Về sau, Giáo Hội dựa vào việc Chúa Phục
Sinh hiện ra vào ngày Thứ Nhất, nên gọi là ngày Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. +sáng
sớm… lúc trời còn tối: Về thời gian khi các phụ nữ ra thăm mộ, các Tin
Mừng có những diễn tả hơi khác nhau: Ở đây Gio-an viết: “Sáng sớm ngày Thứ Nhất
trong tuần, lúc trời còn tối” (x. Ga 20,1); Còn Mát-thêu viết: “Sau ngày
Sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló rạng (x. Mt 28,1); So với Mác-cô:
“Sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc” (x. Mc 16,2) ;
Riêng Lu-ca lại viết: “Ngày Thứ Nhất trong tuần, vừa tảng sáng” (x. Lc 24,1). +
Ma-ri-a Mác-đa-la: Mác-đa-la là một thị trấn nằm trên bờ phía tây biển
hồ Ghen-nê-xa-rét. Là quê của bà Ma-ri-a. Bà đã từng bị 7 quỷ ám trước khi theo
Chúa Giê-su (x. lc 8,2). Bà là một trong những phụ nữ đầu tiên đã ra thăm mộ
Chúa (x. Ga 20,1; Mt 28,1; Lc 24,10). Trước đó, bà đã can đảm đứng gần thập giá
(x. Ga 19,25; Mt 27,56) và đã chứng kiến hai môn đệ mai táng Thầy trong mồ (x.
Mt 27,61; Mc 15,47).
- C 2: + Bà liền chạy về gặp ông Si-mon Phê-rô: Câu này nói lên vai trò quan trọng đặc biệt của Phê-rô là người đứng
đầu Nhóm Mười Hai. Do đó, Ma-ri-a Mác-đa-la cần phải báo cáo với ông trước tiên
về việc xác Thầy biến mất. + Và người môn đệ thương mến: Cách nói “môn đệ được
thương mến” là kiểu nói riêng trong Tin Mừng Gio-an. Đây là cách tác giả nói về
mình một cách khiêm tốn khi không muốn nhắc đến tên của mình. +
Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ và chúng tôi không biết: Khi thấy mồ
trống, Ma-ri-a Mác-đa-la không nghĩ đến việc Chúa sống lại như nhiều lần Người
đã báo trước, mà bà chỉ theo suy luận tự nhiên để cho rằng ai đó đã đến mang
xác Thầy ra khỏi mồ. Từ “Chúng tôi” trong câu này ám chỉ Ma-ri-a không đi ra mồ
Chúa một mình mà đi chung với mấy bà khác nữa (x. Mt 28,1).
-C 3-4: + Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ: Khi được các phụ nữ báo tin mộ trống và xác Thầy biến mất, hai môn đệ
nòng cốt là Phê-rô và Gio-an liền tức tốc chạy ra mộ để kiểm tra thực hư. điều
đó cho thấy lòng nhiệt thành và ý thức trách nhiệm trổi vượt của hai ông. + Môn
đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước: Lý do Gio-an chạy
nhanh hơn và đến mộ trước Phê-rô đơn giản là vì ông trẻ hơn nên khỏe và chạy nhanh hơn Phê-rô, và có
lẽ cũng vì nôn nóng do yêu mến Thầy nhiều hơn.
- C 5-6: + Băng vải còn ở đó: Đây là tấm vải lớn bao bọc toàn thân Đức Giê-su. Khăn này theo truyền
thuyết còn được lưu giữ tại nhà nguyện thánh Gio-an ở Tu-ri-nô miền Bắc nước Ý.
+
Nhưng không vào: Gioa-an không vào có thể do ông tôn trọng và nhường
cho Phê-rô là đàn anh vào trước mình. Nhưng đúng hơn có lẽ do ông cảm thấy bàng
hoàng trước sự kiện cửa mồ rộng mở và mải lo suy nghĩ về những tấm khăn để lại,
đủ thời gian cho Phê-rô theo sau kịp chạy đến nơi. + Si-mon Phê-rô … vào thẳng trong
mộ: Phê-rô tính nóng nảy nên lập tức bước vào trong mồ.
- C
7-9: + Và khăn che đầu. Khăn này không để
lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi: Bên trong mộ các khăn liệm xác vẫn còn để lại,
khác với trường hợp La-da-rô khi sống lại ra ngoài trong tình trạng “chân tay
còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn (x. Ga 11,43-44). Điều này cho thấy Đức
Giê-su không cần ai giúp đỡ khi trỗi dậy ra khỏi mồ. Người đã tự lăn tảng đá
che kín mộ ra thì cũng có thể tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn che mặt như vậy.
Sự kiện khăn còn để lại cho Gio-an thấy Thầy Giê-su đã thực sự sống lại. Vì
không kẻ trộm nào lại bỏ công sức và thời gian để làm một việc vô ích là cởi
các dây vải ra và xếp gọn để vào một chỗ rồi mới đem xác trần đi cả ! + Ông
đã thấy và đã tin: Dấu chỉ ngôi mộ trống và các băng vải liệm xác được
xếp gọn lại đã giúp Gio-an suy luận và đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Đức Giê-su
đã từ cõi chết sống lại. +Trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh
Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết: Trước khi thấy các dấu
chứng vừa nói thì Gio-an và các Tông đồ đều không tin Thầy các ông sẽ sống lại,
dù Người đã báo trước tới ba lần (x. Mt 16,21; 17,23; 20,19). Nhưng khi thấy
các dấu chứng như mồ trống, các khăn vải liệm xác, dây băng được cuộn lại riêng
một chỗ, thì các ông đã nhớ lại những lời Thánh Kinh được ứng nghiệm nơi Đức
Giê-su và tin Người đã thực sự sống lại từ cõi chết (x.Tv 16,10; Tv 2,7; Hs
6,2).
4.
CÂU HỎI:
1)
Tại sao ngày nay người ta gọi ngày Thứ Nhất trong tuần là Chúa Nhật ? 2) Về
thời điểm bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra thăm mồ Chúa, so sánh bản tường thuật của 4
tác giả Tin Mừng khác nhau như thế nào ? 3) Bạn biết gì về thân thế của bà
Ma-ri-a Mác-đa-la ? 4) Bà đã báo tin xác Thầy biến mất cho ai ? Tại sao ? 5)
Qua câu nói với Phê-rô và Gio-an, bà Ma-ri-a Mác-đa-la có tin việc Thầy Giê-su
đã phục sinh hay không ? 6) Hành động chạy nhanh ra mồ của Phê-rô và Gio-an cho
thấy tinh thần trách nhiệm của 2 ông như thế nào ? 7) Tại sao Gio-an chạy nhanh
hơn Phê-rô ? 8)Tại sao ông Gio-an đến mộ trước Phê-rô mà không vào bên trong mộ
ngay ? 9) Khi thấy hiện tượng mồ trống, băng vài và khăn che đầu được xếp gọn,
hai ông đã tin gì về mầu nhiệm Đức Giê-su sống lại ?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1.
LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8).
2. CÂU
CHUYỆN:
1)
VỀ SỨ VỤ RAO GIẢNG TIN MỪNG PHỤC SINH:
Sau khi chịu chết trên thập giá, Đức Giê-su đã sống lại
và vào trong vinh quang. Tuy vậy, trên tay chân và cạnh sườn Người vẫn còn mang
những dấu tích đau thương từ những cây đinh nhọn và lưỡi đòng đâm thâu. Một vị
thiên thần đã lên tiếng hỏi Đức Giê-su rằng: “Chắc Chúa đã phải chịu muôn vàn
đau khổ nhục nhã do loài người dưới thế gây ra ?” Người đáp: “Đúng vậy !” Thiên
thần hỏi tiếp: “Có phải tất cả con cái loài người đều biết Chúa đã chịu đau khổ
và chịu chết để đền thay các tội lỗi của họ không ?” Chúa trả lời: “Chưa đâu,
mới chỉ có một số ít người nhận biết mà thôi”. Thiên thần lại nói: “Thế thì
Chúa đã làm gì để họ nhận biết ơn cứu độ đó ?”
Chúa đáp: “Ta lại đi loan báo Tin Vui cho những người khác, đến khi nào
tất cả mọi người trên địa đầu đều được nghe Tin Mừng cứu độ ấy mới thôi”. Vị
thiên thần đã hiểu rõ tính bốc đồng của loài người và nghi ngờ họ nên hỏi tiếp:
“Giả như Phê-rô, Gio-an và các Tông đồ quên thi hành sứ mệnh rao giảng đó thì
sao ? Nếu các tín hữu các thế hệ sau này có lúc nào đó gặp phải những bách hại
chống đối của kẻ gian ác mà chán nản buông xuôi thì sao ? Chúa có lập thêm một
chương trình cứu độ nào khác nữa thôi ?” Chúa Giê-su trả lời: “Ta sẽ không bao
giờ lập ra thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa ! Ta đã biết trước tính
khí con cái loài người thường nhát đảm sợ sệt và bất định, nên đã thổi hơi ban
sức mạnh Thần Khí của Ta cho họ, để giúp họ thi hành sứ mệnh, và Ta hoàn toàn
tin tưởng họ sẽ chu toàn được sứ mệnh đó”.
2)
ĐƯỢC PHỤC SINH NHỜ SỐNG THEO LỜI CHÚA DẠY:
Cuốn phim “Chiếc cầu sông Quai” diễn tả câu chuyện phục
sinh tại một trại tù như sau:
Vào thời đệ nhị thế chiến, những người lính đồng minh bị quân đội Nhật bắt
làm tù binh, được đem tới vùng biên giới Miến Điện và Thái Lan để xây dựng
tuyến đường sắt vận chuyển vũ khí. Cuộc sống ở đây thật khắc nghiệt. Họ bị
cưỡng bức lao động dưới cái nóng như đổ lửa, có khi lên tới những 49 độ. Họ bị
đối xử một cách tàn thệ. Chính cuộc sống khắc khổ này đã làm cho họ trở nên những
con người độc ác. Họ cư xử với nhau bằng luật rừng « Mạnh được yếu
thua », trộm cắp, nghi ngờ và làm tay sai chỉ điểm nhau cho bọn lính cai
tù.
Thế rồi một điều khó tin đã xảy ra: Có hai tù nhân nọ, đã
tổ chức cho những bạn tù của mình thành một nhóm học hỏi Lời Chúa. Và nhờ sự
học hỏi này, mà Lời Chúa bắt đầu thấm vào tâm hồn họ, để rồi chính họ khám phá
ra Đức Kitô đang sống giữa họ. Ngài hiểu và cảm thông với nỗi đau của họ, bởi
vì Ngài cũng đã từng sống vất vả, đã từng chịu cảnh đói khát mệt mỏi, đã từng
bị môn đệ phản bội và đã từng bị bọn lính Rô-ma đánh đòn... Từ đó, tất cả những
lời Đức Giê-su nói và những việc Ngài làm đều mang một ý nghĩa mới và trở nên
sống động đối với các tù nhân. Họ không còn nghĩ mình là nạn nhân của một cuộc
chiến dã man. Họ không còn chỉ điểm và trộm cắp của nhau, nhưng đối xử với nhau
bằng tình thương yêu và nhất là họ bắt đầu cầu nguyện cho nhau.
Từ đó, trong trại tù thỉnh thoảng có những tiếng hát vui
tươi thay cho sự thinh lặng căng thẳng, giống như sự khác biệt giữa cái chết và
sự phục sinh. Nói cách khác, sự biến đổi xảy ra trong trại tù chính là một lễ
phục sinh, là một phép lạ làm cho họ tin tưởng lẫn nhau thay vì nghi ngờ nhau.
Làm cho họ biết chia sẻ với nhau thay vì trộm cắp. Làm cho họ biết giúp đỡ nhau
thay vì tìm cách chỉ điểm làm hại lẫn nhau.
3)
TÌNH YÊU MẠNH HƠN SỰ CHẾT:
Một cuốn phim mang tựa đề “Thế Giới Trong Tăm Tối” diễn
tả câu truyện về một nhà khảo cổ danh tiếng tổ chức một cuộc khai quật khoa học
ở Giêrusalem.
Ngọn đồi Golgotha được cẩn thận đào bới, kể cả những phiến đá và các hang
động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò khám xét kỹ lưỡng. Vì theo
Tin Mừng Thánh Gioan, xác của Chúa Giêsu được chôn cất trong một phần mộ gần
nơi Ngài bị án tử hình Thập giá. Sau bao công khó đào bới khám xét, một ngày
kia nhà khảo cổ tuyên bố: “Tôi đã tìm được xác ông Giêsu”. Rồi ông tổ chức một
cuộc họp báo rầm rộ, quy tụ hàng trăm ký giả và nhiếp ảnh viên để trình bày kết
quả mỹ mãn của bao ngày tháng đào bới khảo cứu vất vả. Ông đã trưng dẫn trước
mặt mọi người một xác người đã khô đét, nhưng còn có thể nhận ra là tay chân
của xác người này bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu và cả những dấu chứng tỏ
thân xác ấy bị nhuốm máu qua những vết in trên tấm khăn liệm xác.
Cuốn phim quay lại cảnh mọi người im lặng theo dõi bài thuyết trình của nhà
khảo cố. Tình cờ có một phụ nữ phát biểu lớn tiếng: “Đây là sự thật hiển nhiên.
Ông ta bị đóng đinh, đã chết và đã được táng xác” và nhà khảo cổ tiếp lời:
“Vâng, đúng thế, bị đóng đinh, chết và được an táng. Nhưng làm gì có chuyện
Phục Sinh, bởi vì xác ông ta vẫn còn nằm đây”.
Tiếp đến, cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc tìm được xác ông Giêsu:
- Không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa.
- Một linh mục tắt đèn Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa
và đóng cửa nhà thờ.
- Chuông các thánh đường im tiếng.
- Các nữ tu cởi khăn trùm đầu.
- Thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống.
- Đèn bên những ngôi mộ bị dập tắt.
- Thế giới chìm đắm trong màn đêm u tối dày đặc.
Cuốn phim kết thúc với cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp
hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận: “Tôi đã đánh lừa thế
giới. Chính tôi đã làm giả xác của ông Giê-su và bí mật đặt vào trong mộ mấy
năm trước khi khởi sự cuộc đào bới tìm kiếm này”.
Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người tuôn đến ngôi
mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hàng năm trong Tuần Thánh. Những
ngọn nến được thắp lên và các tín hữu mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn
nến của niềm hy vọng đi khắp nơi soi sáng con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ
ngân vang như báo tin Chúa Giêsu đã Phục Sinh: Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự
sống mạnh hơn cái chết.
3. SUY NIỆM:
Bằng lối văn súc tích và hàm chứa những tư tưởng sâu sắc,
Tin Mừng Gio-an đã mô tả cuộc hành trình đức tin và đức mến của ba nhân vật
quan trọng trong bài Tin Mừng Phục Sinh hôm nay như sau:
1) LÒNG MẾN ĐÃ
THÚC BÁCH MA-RI-A MÁC-ĐA-LA ĐI TÌM CHÚA:
Niềm vui Phục Sinh khởi đầu bằng việc bà Ma-ri-a
Mác-đa-la đi thăm mộ ngay từ sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt
hoảng khi thấy tảng đá che cửa mồ đã bị lăn sang một bên và xác Thầy trong mộ
biến mất. Cũng như do lòng mến đã làm cho bà thêm can đảm đứng dưới chân thập
giá (x. Ga 19,25), và ở lại chứng kiến việc 2 môn đệ an táng Thầy trước đó (x.
Mt 27,61), thì giờ đây lại thôi thúc bà cùng mấy bà khác đem theo dầu thơm ra
mộ để ướp xác Thầy theo phong tục Do thái (x. Mc 16,2). Khi thấy mộ trống,
Ma-ri-a hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ Phê-rô và Gio-an (x. Ga 20,2).
Theo bà suy nghĩ thì ai đó đã đến lấy mất xác Thầy và bà không biết họ đã để Thầy
ở đâu (x. Ga 20,13.15). Ma-ri-a không hề nghĩ rằng Thầy đã phục sinh, mà bà chỉ
mong sao tìm lại được xác Thầy để mang về chôn lại trong mộ mà thôi. Sau khi
Phê-rô và Gio-an chạy ra mộ rồi trở về, thì một lần nữa, do lòng mến thôi thúc,
Ma-ri-a lại quay ra mồ than khóc. Trong lần ra mộ thứ hai này, bà đã trở thành
người đầu tiên gặp được Chúa Phục Sinh hiện ra. Người còn trao cho bà sứ mệnh
đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông đồ như sau: “Hãy đi gặp anh em Thầy
và bảo họ rằng: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng
Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).
2) LÒNG MẾN ĐÃ
GIÚP GIO-AN NHẬN BIẾT CHÚA PHỤC SINH TRƯỚC ANH EM:
Gio-an là một trong bốn môn đệ được Thầy kêu gọi đầu tiên
(x Mt 4,21). Là một trong ba môn đệ được chứng kiến Thầy biến hình (x Mt 17,1)
và cũng là người môn đệ được Thầy yêu mến nhất (x Ga 13,23). Tình yêu đối với
Thầy đã thôi thúc ông, làm cho ông trở thành người can đảm hơn cả: Không bỏ
chạy nhưng âm thầm theo dõi các sự kiện xảy ra từ lúc Thầy bị bắt đến khi bị
xét xử giữa hai tòa án đạo và đời; Can đảm đứng dưới chân thập giá để chứng
kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và được Thầy trăn trối Đức Ma-ri-a làm Mẹ của
mình và đón Mẹ về nhà mà phụng dưỡng thay cho Thầy (x Ga 19,27). Cũng do tình
yêu thôi thúc mà Gio-an đã trở thành người môn đệ đầu tiên trong Nhóm Mười Hai
nhận ra Chúa Phục Sinh tại biển hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21,7). Cũng chính tình yêu
ấy đã thúc bách Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô và đạt đến đức tin trước Tông đồ
Phê-rô (x Ga 20,8).
3) LÒNG MẾN LÀM
PHÊ-RÔ ĐƯỢC THA TỘI VÀ ĐƯỢC TRAO QUYỀN MỤC TỬ:
Phê-rô là một trong bốn môn đệ đã theo Đức Giê-su trước
hết (x. Mt 4,18-20). Ông đã tình nguyện bỏ hết mọi sự mà đi theo Thầy (x. Mt
19,27-29; Lc 18,28-30). Ông luôn được xếp đứng đầu danh sách Nhóm Mười Hai (x
Mt 10,2). Ông còn là một trong ba môn đệ được nhìn thấy Thầy biến hình trên núi
cao (x Mt 17,1), được chứng kiến phép lạ Người cho bé gái mới chết sống lại (x
Lc 8,51), được ở gần Đức Giê-su khi Người hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x
Mt 26,37). Trong thời gian rao giảng Tin Mừng,
Đức Giê-su có lần đã đến ở trọ tại nhà ông Si-mon Phê-rô tại thành
Ca-phác-na-um (x Mc 1,29). Phê-rô thường đại diện anh em tuyên xưng đức tin
“Thầy chính là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhờ đức tin đó,
Phê-rô đã được khen có phúc, và được Thầy hứa sẽ xây Hội Thánh trên nền tảng
đức tin vững chắc như đá của ông. Người cũng trao quyền cầm buộc và tháo cởi
cho ông (x Mt 16,17-19). Ông còn được
trao sứ mệnh củng cố đức tin cho anh em sau khi trở lại (x. Lc
22,31-32).
Dù còn nhiều khuyết điểm như: bị Thầy nặng lời quở trách
vì dám khuyên Thầy đừng chấp nhận con đường thập giá (x Mt 16,22-23), hoặc có
lúc ông đã bị Thầy trách kém lòng tin (x Mt 14,31) hay trách khi ông không muốn
cho Thầy rửa chân (x Ga 13,6-8). Bị trách khi quá tự tin vào mình (x Mt
26,33-35). Nhất là đã hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy cảnh báo trước
đó (x Mt 26,69-75). Nhưng bù lại ông cũng có lòng yêu mến Thầy hơn mọi người.
Lòng mến của Phê-rô thể hiện qua việc dứt khoát bỏ nghề chài lưới bắt cá để
theo Thầy làm nghề chài lưới các linh hồn (x Mt 4,18-20). Ông cũng thường được
Đức Giê-su hỏi ý kiến như: Thầy trò có nên nộp thuế Đền thờ không ? (x Mt
17,24-27). Có lần ông hỏi ý Đức Giê-su về số lần phải tha thứ cho anh em (x Mt
18,21). Ông cũng đại diện anh em để tuyên xưng đức tin và thề quyết trung thành
với Thầy đến cùng (x Ga 6,68-69). Ông tỏ ra can đảm khi rút gươm ra chém tên
đầy tớ của thượng tế để bảo vệ Thầy (x Ga 18,10). Ông đi theo Gio-an để theo
dõi diễn tiến cảnh Thượng Hội Đồng xét xử Thầy (x Ga 18,15). Trong Tin Mừng hôm
nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy bị mất, Phê-rô cùng Gio-an chạy ra mộ
để kiểm chứng thực hư. Trước sự kiện mồ trống, các khăn vải liệm xác vẫn còn,
Phê-rô đã tin Thầy đã sống lại chứ không bị trộm xác (x Ga 20,8-9). Sau đó ông
còn được Chúa Phục Sinh hiện ra trước anh em Nhóm Mười Một (x Lc 24,34; 1 Cr
15,5). Khi được Gio-an quả quyết người mặc áo trắng đứng trên bờ hồ là Thầy,
Phê-rô vội khoác áo vào nhảy xuống biển bơi vào bờ để mau được gặp Thầy (x Ga
21,7). Ông cũng tuyên xưng lòng mến ba lần và được Thầy trao sứ mệnh chăn dắt
chiên con chiên mẹ và đàn chiên Hội Thánh (x Ga 21,15-17). Lúc cuối đời ông còn
chứng tỏ lòng mến tột cùng khi sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho thầy (x Ga
21,18-19).
4)
GIÁ TRỊ CỦA ĐỨC TIN VÀ LÒNG MẾN:
Chính lòng mến Chúa đã làm cho Ma-ri-a Mác-đa-la ăn năn
sám hối tội lỗi, đi ra thăm mộ đầu tiên và đã được Chúa Phục Sinh hiện ra trao
sứ mệnh loan báo Tin mừng Phục Sinh cho các Tông đồ. Cũng chính lòng mến đã làm
cho Gio-an nhận ra Thầy trước các anh em và thấy được ý nghĩa các sự kiện của
mầu nhiệm Chúa Phục Sinh. Lòng mến cũng
làm cho ông Phê-rô luôn gắn bó với Thầy, hy sinh mọi sự để theo làm môn đệ của
Thầy. Dù có lúc yếu đuối sa ngã phạm tội, nhưng ông đã mau hồi tâm sám hối và
được Thầy tín nhiệm trao sứ mệnh làm Đá Tảng đức tin, củng cố đức tin cho anh
em (x Lc 22,32), và còn được trao quyền chăn dắt đàn chiên Hội Thánh.
Đối với các tín hữu chúng ta, lòng mến rất cần để ta khỏi
bị thất vọng hay hốt hoảng khi gặp đau khổ thất bại giữa đời thường. Cuộc sống
chúng ta nhiều lúc giống như một ngôi mộ trống rỗng, khi những gì chúng ta yêu
quý nhất hoặc những người thân yêu nhất không còn, chúng ta thường chạy đôn
chạy đáo đi tìm người chết trong nước mắt như Ma-ria Mác-đa-la xưa (x Ga
20,11.13). Nhưng cái chết đã không giam hãm được sự sống: Sự sống đã trỗi dậy
từ cõi chết; Ánh sáng đã bừng lên từ bóng tối tử thần;Tình yêu đã chiến thắng
hận thù và Tin Mừng sẽ được loan báo đi khắp thế gian.
4.THẢO
LUẬN:
1)
Nơi Đức Giê-su sự sống đã chiến thắng thần chết, tình yêu đã chiến thắng hận
thù. Còn bạn, bạn có tin rằng đối với những kẻ biết đặt trọn niềm tín thác cậy
trông vào Chúa thì “Sau cơn mưa trời sẽ lại sáng”, “Sau cơn bĩ cực sẽ tới hồi
thái lai” hay không ? 2) Khi gặp phải những hoàn cảnh đau thương trái ý, bạn
cần làm gì để không bị chán nản thất vọng, nhưng luôn đặt trọn niềm hy vọng vào
Chúa sẽ ban ơn giải cứu và giúp bạn được ơn trỗi dậy ?
5.
LỜI CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. Vì Chúa đã phục sinh, nên
con luôn vững tâm cậy trông vào Chúa. Vì Chúa đã phục sinh, nên con sẽ không sợ
khi gặp phải đau khổ thất bại trong cuộc đời. Vì Chúa đã phục sinh, nên con đã
hiểu được lý do của những hành động dấn thân: Cha Đa-miêng hy sinh cả cuộc đời phục
vụ các bệnh nhân phong cùi, Cha Kôn-bê đã tình nguyện chịu chết thế chỗ cho một
tử tù, các thánh Tử Đạo VN đã sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho Chúa.
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Sự phục sinh của Chúa vừa là lời mời
gọi, lại vừa lôi cuốn chúng con hướng tâm hồn lên cao để nhận ra giá trị tương
đối của sắc đẹp, tiền bạc, danh vọng, chức quyền trần gian… hầu noi gương các
thánh: sẵn sàng hy sinh tất cả vì tình yêu Chúa và dám sống chết cho tình yêu
ấy, để quyết dấn thân đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, sẵn sàng đón nhận những
đau khổ thua thiệt... vì xác tín rằng: “Chính khi hiến thân là khi được nhận
lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi thứ tha là khi
được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH -
HHTM