CHỦ NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN
Thiên Chúa là Ai? Người phản ứng như thế
nào trước tội lỗi của chúng ta? Thánh Kinh cho ta thấy Dung mạo đích thật của
Thiên Chúa nơi Lòng Thương xót, nơi Tình yêu tha thứ tất cả. Tuy nhiên, Thiên
Chúa không dửng dưng trước tội lỗi: Cựu và Tân Ước nói về “cơn giận của Thiên
Chúa” đối với tội lỗi. Đó có thể là một kiểu gọi khác về Tình yêu của Người
không?
Xh 32,7-11.13-15
Các bụt thần là những thứ do trí khôn con
người tạo ra để mang lại an ninh cho mình. Khi ông Mô sê vắng mặt, người Do
thái đã đúc một con bê bằng vàng. ChỨNg kiến sự việc ấy, Thiên Chúa đã cho ông
Mô sê hay rằng Người sẽ tiêu diệt họ. Lời cầu xin của ông Mô sê đã đem lại họ
ơn tha thứ. Chúng ta chỉ biết được dung nhan đích thật của Thiên Chúa nhờ Đức
Ki tô mà thôi.
Thánh Vịnh 50
Thánh Vương Đa vít đã nhận ra tội lỗi của
mình. Ngài đã sám hối, và đã khiêm nhường xin Thiên Chúa tha thứ bằng một tâm hồn
tan nát khiêm cung.
1Tm 1,12-17
Trong các thư của mình, Phao lô không ngừng
suy niệm về kinh nghiệm nền tảng đã đảo ngược hòan tòan cuộc đời ông. Tuyệt đối
trung thành với lề luật, xác tín việc mình làm là đúng, ông đã nhân danh Thiên
Chúa ra tay bách hại các ki tô hữu. Một ngày nọ, ông đã khám phá ra lòng Thương
Xót hoàn toàn ban không của Thiên Chúa và tội lỗi của mình. Từ ngày đó, ông đã
thay đổi và trở thành một người nhiệt thành rao giảng Tin Mừng.
Tin mừng Lc 15,1-32 (x. Cn 4 Chay c)
NGỮ CẢNH
Sau khi đã đưa ra những điều kiện cho những
ai muốn đi theo làm môn đệ (14,25-35), Chúa Giê su dùng một số dụ ngôn để biện
minh cho thái độ của Ngài đối với những người tội lỗi nhằm trả lời cho những
trách móc của các người Biệt phái và kinh sư về thái độ thân thiện với những
người tội lỗi.
Chương 15 gồm 3 dụ ngôn, tất cả nhằm đề
cao tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân qua cách xử thế
đặc biệt và lời kêu gọi hóan cải của Chúa Giê su.
TÌM HIỂU
Thu thuế: ở các câu 5,30 và 7,34 chúng ta đã thấy những người thu
thuế bị ghép chung với hạng người tội lỗi, ấy là vì người thu thuế lúc bấy giờ
bị xếp vào hàng những kẻ tội lỗi công khai và bị lề luật Do thái loại ra khỏi
ơn cứu rỗi. Họ đến với Chúa Giê su để nghe Ngài với tư cách là những môn đệ
đích thực.
Xầm xì: người biệt phái và kí lục xầm xì vì họ xét đoán theo tinh
thần luật tinh sạch của họ. Thật vậy, khi hòa đồng với người tội lỗi và ngồi ăn
uống với họ, Chúa Giê su đã mắc ô uế theo lề luật. Và xét theo quan niệm của họ
về Thiên Chúa, thì chung đụng với bọn người tội lỗi đó không xứng đáng với danh
nghĩa một người được Thiên Chúa sai đến. (x. trường hợp ông Phê rô trong Cv
11,3).
Dụ ngôn: từ nầy ở số ít dù sau đó tác giả đưa ra tới ba dụ
ngôn ! Có lẽ lúc tiên khởi, chỉ có một dụ ngôn mà thôi.
Mất: chuyện người mục tử chăm sóc cho tất cả bầy chiên thì
không có gì lạ, điều lạ là việc ông ta dám bỏ 99 con kia để tìm cứu lấy một con
đi lạc !
Hình ảnh ấy rất quen thuộc trong Cựu Ước:
mục tử chăn dắt Israel chính là Thiên Chúa. Người hết lòng thương yêu đà chiên,
đặc biệt những con chiên lạc đàn, và không ngừng đi tìm kiếm chúng (Is 40,11;
Gr 23,1-4; Ed 34; Tv 23). Chúa Giê su tự gọi mình cho mình tước hiệu ấy (Ga
10,11-16). Điều đó cho thấy Ngài không những hết lòng tận tuỵ với người Biệt
phái như một mục tử, mà còn yêu thương bằng chính tình yêu Thiên Chúa.
Xin chung vui với tôi: điều gây ngạc nhiên là một
con chiên lạc bầy mà lại gây sự chú ý của mọi người! Niềm vui của Thiên
Chúa và con người là một trong những chủ đề chính yếu của ba dụ ngôn
(x.15,7.9.10.32).
Vậy: Chúa Giê su rút ra giáo huấn của ví dụ bằng cách chuyển
sang chủ đề về sự đối lập giữa « người công chính - người tội lỗi » như
trong đoạn 5,30-32. Trong khi Mt áp dụng giáo huấn cho trách nhiệm của Hội
Thánh đối với những kẻ bé mọn, thì Luca lại tuyên dương lòng từ ái của Thiên
Chúa đối với những người tội lỗi, lòng từ ái đã được Chúa Giê su làm gương khi
đón tiếp những người thu thuế.
Vui mừng: làm sao con người chúng ta có thể hiểu được sự vui mừng
của Thiên Chúa ? Người tội lỗi khi đã được tha thứ sẽ kinh nghiệm về một
vì Thiên Chúa mạc khải dung nhan đích thực của Người. Họ nhận ra Người là một
vì Thiên Chúa cứu độ đầy lòng nhân ái, đã tạo trong họ một con tim mới. Thiên
Chúa vui mừng vì sự nhận biết ấy. Ngược lại, người công chính tưởng rằng mình
có thể tự cứu lấy chính mình thì lại có một ý tưởng sai lệch về Thiên Chúa.
Thiên Chúa của họ thưởng phạt theo sự công minh chính trực; và dĩ nhiên như thế
thì không thể hòa hợp với một vì Thiên Chúa là Tình yêu và Tự do. Do vậy khi có
một tội nhân trở về thì trên trời vui mừng hơn.
Người công chính: đây không phải là người công
chính đúng nghĩa, nhưng chỉ người tin rằng
mình không cần phải sám hối. Chúng ta nhớ lại câu truyện của ông Simôn biệt
phái và người nữ tội nhân (7,36-50). Chúa Giê su muốn biện minh cho cách hành xử
của mình và đồng thời, cảnh tỉnh những đối thủ của Ngài, bằng cách nhắc cho họ
nhớ sự phán xử của Thiên Chúa.
Phụ nữ: sự thay đổi thường thấy nơi sách Tin Mừng Luca: sau người
đàn ông, thì tới người đàn bà; sau khung cảnh đồng áng, giờ tới một bà nội trợ
(x.13,18-21). Ngoài ra ta hãy chú ý đến sự giảm dần số lượng trong ba dụ ngôn nầy:
100 con chiên, 10 đồng bạc, và một đứa trong hai đứa con.
Mừng vui: ở đây tác giả không đối chiếu hai hạng
người tội lỗi và công chính nữa, mà chỉ đơn thuần xác định rằng mọi người tội lỗi
trở về làm cho Thiên Chúa vui mừng hơn cả. Sám hối không chỉ bao hàm trong việc
thay đổi đời sống, mà còn là việc thay đổi quan niệm, từ một vì Thiên Chúa
chinh phục đến một vì Thiên Chúa tự hiến ban chính mình một cách nhưng không.
Chỉ như thế, tội nhân mới có một sự hiểu biết đích thực về Thiên Chúa, và một
kinh nghiệm về lòng nhân ái của Người. Và đó là điều làm vinh danh Người.
Người con thứ: chỉ có Luca kể lại ví dụ nầy, gồm hai phần
nhằm nêu bật cung cách hành xử của người Cha, trước hết đối với đứa con thứ
(15,11-24) rồi đến đứa con cả (15,25-32). Cả hai là hình ảnh của hai hạng người
đang nghe Chúa Giê su nói: người con thứ tương ứng với những người thu thuế,
còn phản ứng của người con cả tượng trưng cho những người biệt phái.
Con chiên đi lạc và đồng tiền bị mất là
do lỗi của chủ nhân của chúng, trái lại đứa con hoang đàng bỏ nhà đi là do sự
quyết định tự do của nó. Tội là một hành vi tự do của con người.
Đứa con thứ đòi phần gia tài thuộc về nó,
tức là một phần ba gia tài theo luật do thái. Rồi bỏ cha mẹ, bỏ nhà mà đi hoang
cho đến khi phung phí hết tiền của. Tội là đòi hỏi được sống độc lập, đồng thời
là một sự vô ơn bất nghĩa, bất tín bất trung xúc phạm đến Thiên Chúa, đấng ban
cho con người mọi ơn lành.
Đang là một người con hạnh phúc trong
nhà Cha, giờ trở thành một kẻ làm tôi cho người khác. Tội làm cho con người
trở thành một tên nô lệ.
Thôi ta đứng lên, đi về: chính sự túng cực nghèo khổ
khởi đầu cho việc trở về nhà Cha (x. Hs 2,8-9). Bắt đầu là suy nghĩ, so sánh
tình trạng khốn khổ hiện giờ với tình trạng sung sướng thuở trước, sau đó là
quyết định trở về.
Cha: cách hành xử của người Cha cho thấy tình yêu của Thiên
Chúa: chính ông chạy đến, chứ không phải là đứa con; không một lời rầy la, cũng
chẳng để cho đứa con có giờ xưng thú hết lỗi lầm, ông ra lệnh mang ra những gì
quí báu nhất cho con mình. Ông muốn chứng tỏ rằng nó không còn là một người tôi
tớ nữa, mà thật sự là một người con đáng được yêu thương kính trọng.
Người Cha ấy là hình ảnh của Thiên Chúa,
luôn thương yêu và không ngừng chăm sóc những kẻ từ bỏ lìa xa Ngài. Sự tha thứ
của Ngài thật là một sự tái tạo, một tạo dựng mới (Tv 51,10-14). Thiên Chúa mừng
vui vì những người tội lỗi sám hối (15,7-10).
Người con cả: cử chỉ thái độ của người con nầy là hình ảnh
của những người tự cho là công chính, làm trọn các bổn phận của mình, nhưng
trong thâm tâm là ghen tương và khinh bỉ đối với người khác: không nhận em trở
về, cũng chẳng coi trọng cha vui mừng đón rước đứa con đi xa trở về
Em con đây: lời nói của Cha muốn nối kết hai đứa con
như anh em một nhà.
Sống: trong Thánh Kinh, sự sống có nghĩa là ở trong mối tương
quan; trong khi không thể thông hiệp với tha nhân và với Thiên Chúa có nghĩa là
đang chết (Tv 88,5-9; 115,5-7). Ở đây tương quan con cái và huynh đệ được tái lập,
được coi như sống lại.
Dụ ngôn nầy có giá trị ngay trong ngữ cảnh
mà Luca đã đặt vào (15,2). Chúa Giê su muốn biện minh cho cung cách hành xử của
Ngài đối với những người tội lỗi: Ngài là chứng tá cho Thiên Chúa tình yêu
(10,33-37).
Đồng thời, Ngài mời gọi những người chỉ
trích Ngài hãy bắt chước tình yêu đó, là tiếp nhận ngay cả những người mà họ
khinh khi.
Đối với các tín hữu tiên khởi, dụ ngôn
còn cho thấy mối bận tâm truyền giáo của Giáo Hội, mong muốn cùng Chúa Giê su
đi đến với lương dân để đưa họ vào trong gia đình của Thiên Chúa. Họ cũng đòi hỏi
sự bao dung của người Do thái trở lại, những đứa con cả của lời hứa trong việc
tiếp nhận các môn đệ từ dân ngoại trở lại.
SỨ ĐIỆP
Bài tin mừng hôm nay, chúng ta đã nghe và
đọc rất nhiều lần. Một vài người có thể nghĩ rằng không còn gì để nói nữa. Thế
nhưng, nó để lại cho chúng ta một tin mừng mà chúng ta không ngừng tiếp nhận.
Điều khẩn thiết nhất, đó là thay đổi, một lần dứt khoát, hình ảnh mà chúng ta
có về Thiên Chúa của chúng ta. Rất thường, chúng ta trình bày Người như là một
vì Thiên Chúa cảnh sát, hăm dọa và báo oán, luôn sẵn sàng dò xét để bắt lỗi và
trừng phạt chúng ta. Cái nhìn đó hoàn toàn ngược lại với điều mà tin mừng loan
báo cho chúng ta.
Thật thế, tòan bài tin mừng hôm nay lặp
đi lặp lại với chúng ta rằng Thiên Chúa của chúng ta là tình yêu. Và dường như
một bài dụ ngôn không đủ, Chúa Giê su kể ba dụ ngôn để cho chúng ta thấy Thiên
Chúa là đấng tốt lành và thương xót như thế nào. Lòng thương xót tha thứ của
Người thì vô hạn. Chỉ cần nhớ một điều là người tôi lỗi được yêu thương hơn người
vô tội và cũng cần hiểu cho đúng: Thiên Chúa không thích tội lỗi. Người luôn
luôn chống lại tội lỗi, nhưng yêu thương tất cả các tội nhân. Chúa Giê su đã đến
để tìm và cứu chữa những gì đã hư mất. Ngài như thầy thuốc không đến vì những
người lành mạnh mà đến vì những người đau yếu. Mối quan tâm lớn của Ngài là chữa
lành và đưa họ trở lại gia đình những người ki tô hữu.
Sự chữa lành và tìm kiếm ấy là điểm khởi
hành cho một niềm vui vô biên trong trái tim của Thiên Chúa. Thiên Chúa như người
Cha tốt lành nhất, Người yêu thương từng người cách riêng. Người yêu thương từng
người chúng ta dường như thể chúng ta là những người duy nhất trên trần gian.
Người gắn bó với chúng ta như của quí nhất của Người.
Chính vì thế mà khi sai Con là Chúa Giê
su đến thế gian, Thiên Chúa Cha truyền cho Chúa Giê su là đừng để mất một người
con nào trong chúng ta. Nỗi đau buồn lớn nhất của Người là một ai đó không nghe
tiếng gọi của Người. Thiên Chúa sẽ khổ sở vô cùng khi nhìn thấy một đứa con xa
rời tình yêu của Người. Bấy giờ Người làm tất cả mọi sự để tìm lại. Người luôn
luôn sắp đặt trên đường những điều cần thiết để giúp nó hồi tâm và nghĩ đến
tình yêu mà quay trở về. Chỉ cần đọc hoặc nghe một vài chứng từ của những người
trở về để xác tín điều đó.
Tội nặng nề nhất không phải là bỏ đi hoặc
sa ngã. Điều tệ hại nhất là tưởng rằng vì tội lỗi chúng ta, chúng ta không còn
được Thiên Chúa yêu thương nữa, là nghĩ rằng Người không còn quan tâm đến chúng
ta nữa. Thế mà trong chính lúc đó chúng ta được quan tâm nhất.
Bệnh phong hủi, bệnh đui mù của chúng ta
lại là những lí do nữa khiến Người yêu thương chúng ta hơn. Tội đích thật là
tin rằng chúng ta vĩnh viễn bị lọai trừ. Nhưng đối với Thiên Chúa, không bao giờ
có tình trạng tuyệt vọng. Đành rằng tội lỗi làm cho chúng ta trở nên xấu xa,
nhưng chúng ta vẫn còn là phần tử của một gia đình lớn gồm các ki tô hữu.
Tội đích thật là quay về chính mình. Như
đứa con trai hoang đàng, chúng ta đang ở nơi xa. Chúng ta đi thật xa để trốn
cái nhìn của Thiên Chúa. Ai lâm vào tình trạng đó thường có khuynh hướng coi
mình như là một kẻ mạt hạng và đành chịu vậy. Nó không thấy điều kì diệu đang
chờ đợi nó. Tội đích thật là sự tuyệt vọng bởi vì người ta tuyệt vọng về mình
và về Thiên Chúa. Một ngày nọ, thánh Tê rê xa nói: “Còn tôi, nếu tôi đã phạm những
tội ác, tôi vẫn giữ lòng tin tường bởi vì tôi biết chắc rằng tất cả núi tội lỗi
đó chỉ như một giọt nước trong lò lửa nóng mà thôi”.
Trong gia đình của Thiên Chúa, chính Cha
có sáng kiến. Người không chờ đợi các tội nhân tỏ dấu hối hận để tìm kiếm họ. Người
không ngừng đi bước trước về phía chúng ta. Nhưng cũng như Ađam trong vuờn địa
đàng trần gian, chúng ta có cám dỗ chạy trốn cái nhìn của Cha và che giấu sự hỗ
thẹn của chúng ta. Trong trường hợp nầy cũng thế, tội đích thật chính là bịt
tai lại trước lời mời gọi hối cải của Thiên Chúa, là không muốn được chữa lành
và cũng không còn muốn đặt lại vấn đề nữa.
Đứa con hoang đàng hồi tâm. Nó ý thức
tình trạng của nó. Nó đã quyết định chỗi dậy và về cùng Cha nó. Sự trở về nầy
phát xuất từ những động cơ lợi lộc nhưng không sao. Trái lại, sự đau khổ mở mắt
cho những người nào không muốn nhìn. Từ một điều xấu, Thiên Chúa luôn có thể
làm nẩy sinh ra một điều lành. Tội đích thật là từ chối tin vào tình yêu, là
nghĩ rằng chúng đã bị tiêu diệt, và vô phương cứu chữa.
Tội là một bất hạnh khủng khiếp. Nhưng
toàn bài tin mừng hôm nay được soi sáng bởi một niềm vui lớn. Đó là niềm vui của
người chăn chiên tìm lại được con chiên đi lạc: đó là niềm vui của người đàn bà
tìm lại đồng bạc mình đánh mất. Và trên hết là niềm vui của Thiên Chúa khi tìm
lại được đứa con đã mất. Người sung sướng đến độ phải mở tiệc ăn mừng. Đó là một
tin vui cho những người tội lỗi chúng ta, vì nhiều khi thật khó mà tin rằng
chúng ta được lãnh nhận không phải trả một đồng nào. Vì chúng ta quên rằng Đức
Ki tô đã mang lấy tất cả nợ nần của chúng ta. Chỉ cần chỗi dậy và ngả mình vào
đôi tay của Thiên Chúa.
Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì muôn ơn tha thứ
mà chúng ta đã tiếp nhận và cầu nguyện cho những ngưởi đang cần đến; ước gì họ
hãy tin tưởng đến cầu khẩn ơn tha thứ nơi đấng không đòi gì khác hơn là ban ơn
cho họ.
ĐÀO SÂU
NIỀM VUI THA THỨ
Xh 32,7-11, 13-14 Mô-sê khẩn nài Thiên Chúa tha thứ tội bất
trung của con dân Ngài
Tv 51,1-2, 10-11, 15+17 Tôi sẽ chỗi dậy và đi về cùng cha tôi
1 Tm 1,12-17 Lời tạ ơn của tội nhân được Thiên Chúa tha
thứ
Lc 15,1-32 or 15,1-10 Thiên Chúa vui mừng vì đứa con trai hoang
đàng trở về và được tha thứ
1. HỎI: Ba bài đọc liên kết
với nhau theo chủ đề nào?
THƯA: NIỀM VUI THA THỨ. Thiên
Chúa đã xót thương Ít-ra-ên tội lỗi và tha thứ cho họ (Bđ1). Chúa Giê su trong
bài Tin mừng cho thấy niềm vui chan hòa của chính Thiên Chúa thương xót tha thứ
cho một tội nhân quay trở về (BTM). Vì tình thương Ngài đã biến đổi thánh
Phaolô, một con người hung hăng bách hại đạo Chúa trở nên vị tông đồ kiệt xuất
của Tin mừng cứu độ (Bđ2).
2. HỎI: Sách Xuất hành là
sách gì?
THƯA: Sách Xuất hành là quyển
sách thứ hai của Kinh Thánh, thuộc loại sách Sử. Sách Xuất hành kể lại cuộc đi ra khỏi
Ai cập như một kinh nghiệm về quyền năng giải phóng của Thiên Chúa, và kể lại
Giao Ước như là một kinh nghiệm cộng đồng về sự gặp gỡ Thiên Chúa.
3. HỎI: Bối cảnh của bài đọc thứ nhất như thế nào?
THƯA: Ba tháng sau khi ra khỏi Ai cập, Thiên Chúa đề nghị lập Giao Ước
với Mô-sê và dân Người, và toàn dân đồng thanh chấp nhận. Sau đó, Mô-sê lên núi
để tiếp nhận các bảng đá khắc ghi Lề luật trong khi toàn dân chờ ở dưới núi.
Sau một thời gian dài nghe ngóng không thấy gì cả, dân bắt đầu lo lắng: Thiên
Chúa ở đâu? Ông Mô-sê ở đâu? Bấy giờ xảy ra câu chuyện con bò bằng vàng. Khi
Mô-sê xuống núi, ông đã nghe tiếng đàn hát, ông hiểu ngay dân đã phạm tội thờ bụt
thần, liền nổi giận đập hai bia đá tan tành.
4. HỎI: Tại sao đúc tượng con bò vàng là một tội?
THƯA: Vì đó là điều Thiên Chúa cấm trong giới răn thứ nhất: ‘Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch
với Ta. Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì […] để mà thờ. Ngươi
không được phủ phục trước những thứ đó mà thờ: vì Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi, một vị thần ghen tương’ (Xh 10,3-45).
5. HỎI: Tại sao người Híp
pri lại đúc con bò vàng?
THƯA: Vì họ đã nhìn thấy và
thích thú ngắm hình tượng đó bên Ai cập. Con bò vàng biểu hiện cho mặt trời mọc.
6. HỎI: Tại sao Thiên Chúa
cấm tạc tượng Người mà thờ?
THƯA: Tôn thờ hình tượng là điều
sai lầm. Trước hết, vẽ hình hay tạc tượng Thiên Chúa không tránh khỏi thất bại,
người ta không thể giản lược Thiên Chúa quyền năng vào một bức tượng, vì Người
không nằm trong chiều kích của con người. Thứ đến, mọi cố gắng định hình Thiên
Chúa, hay tỏ một quyền năng nào trên Ngài đều là sai lầm, vì nó sẽ đưa đến ma
thuật hay bái vật giáo.
7. HỎI: Vậy bài đọc một có
nội dung như thế nào?
THƯA: Bài đọc 1 là một trích đoạn của sách Xuất Hành (Xh 32,7-11.13-14) kể lại việc Thiên Chúa nổi
giận và dự tính tiêu diệt dân Ít-ra-en để trừng phạt sự cứng lòng và phản bội của
họ. Nhưng nhờ sự can thiệp kiên trì của ông Mô-sê khi ông nhắc lại lời Người đã
hứa với các tổ phụ là Áp-bra-ham, I-sa-ác và Ít-ra-en, Thiên Chúa đã nguôi cơn
thịnh nộ.
8. HỎI: Thiên Chúa mà cũng
biết nổi giận sao?
THƯA: Đó chỉ là một cách mô tả, một cách nói của
con người về Thiên Chúa. Kinh Thánh nói về cơn thịnh nộ của Thiên
Chúa luôn luôn là để diễn tả việc Người
không bao giờ muốn để chúng ta bị lầm lạc.
9. HỎI: Sự tha thứ của Người
có nghĩa gì?
THƯA:
Sự tha thứ Thiên
Chúa không bao giờ tùy thuộc những lời xin lỗi của chúng ta. Trái lại, sự tha
thứ của Người có nghĩa là Người luôn muốn nối lại Giao Ước sau mỗi lần chúng ta
phản bội.
10. HỎI: Vậy bài đọc một dạy
chúng ta biết Thiên Chúa là ai?
THƯA: Qua bài đọc một, chúng ta
khám phá ra diện mạo đích thực của Thiên Chúa. Người là Đấng rất trung tín với
lời hứa và rất yêu thương dân Ít-ra-ên nói riêng và loài người nói chung. Thiên
Chúa không muốn một ai bị trừng phạt hay bị tiêu diệt vì tội lỗi và sự phản bội
mà người ấy đáng chịu.
11. HỎI: Và ông Mô-sê?
THƯA: Bài đọc một cũng thấy ông
Mô-sê là người có ‘thần thế’ như thế nào trước mặt Thiên Chúa, lời cầu xin và
năn nỉ của ông đã làm cho Thiên Chúa nguôi ngoai cơn thịnh nộ.
12. HỎI: Như thế, ông
Mô-sê có phải là tiền ảnh báo trước Chúa Giê su không?
THƯA: Đúng thế! Ông Mô-sê chuyển
cầu cho dân Ít-ra-ên và từ chối tách biệt khỏi đám người tội lỗi (x. cc.30-32).
Và như thế ông là tiền ảnh cho Chúa Giê su, liên đới với anh em mình (Hr
2,10-18) và chuyển cầu lên Thiên Chúa Cha (Lc 23,34). Ngài là Chiên Thiên Chúa
gánh lấy tội lỗi trần gian để xóa tội cho họ (x. Ga 1,29).
13. HỎI: Bài đọc 2 (1 Tm 1, 12-17)
có nội dung như thế nào?
THƯA: Thánh Phaolô vui mừng cảm tạ Thiên Chúa vì Người đã được lòng
thương xót của Chúa tha thứ và biến đổi thành vị tộng đồ nhiệt thành loan báo
Tin mừng.
14. HỎI:
Ngữ cảnh bài Tin mừng (Lc 15, 1-32) như thế nào?
THƯA: Sau khi đã nói về những điều kiện để làm môn đệ (14,25-35),
Chúa Giê su dùng ba dụ ngôn trả lời với các người Pha-ri-sêu và các kinh sư, vì
họ đã lẩm bẩm trách móc khi Ngài tiếp đón và ăn uống những người thu thuế và tội
lỗi. Đó là dụ ngôn ‘Con chiên bị lạc mất’ (cc. 4-7), ‘Đồng bạc bị đánh mất
‘(cc. 8-10), và ‘Người cha nhân hậu’ (cc. 11-32).
15. HỎI: Đâu là chủ đề mà
thánh Lu ca đặt trong ba dụ ngôn nầy?
THƯA: Sứ điệp mà thánh Luca muốn
truyền đạt qua ba dụ ngôn của Chúa Giêsu, là lòng thương xót bao la của Thiên
Chúa thể hiện qua cuộc sống của Chúa Giê su mà ông đã kinh nghiệm. Lòng thương
xót của Thiên Chúa vượt qua tất cả các hạn chế con người trong cách cư xử với
người tội lỗi. Thật vậy, lòng thương xót khiến Thiên Chúa cư xử điên rồ như người
chăn chiên bỏ 99 con chiên để cứu lấy một con, như người phụ nữ đã lục tung nhà
mình để tìm một đồng tiền lẻ, như người cha hân hoan mở tiệc ăn mừng đứa con
phung phá trở về. Vì các môn đệ có một Thiên Chúa đầy lòng thương xót như thế,
họ có thể tự tin và hân hoan đi theo con đường mà Chúa Giêsu vạch ra để đến với
Thiên Chúa.
16. HỎI: Chúng ta thấy
cũng tìm thấy chủ đề ‘Niềm vui’ trong các dụ ngôn ấy?
THƯA:
Chắc chắn là như thế, thậm chí chủ đề niềm vui kéo dài trong toàn bộ chương 15 (x. Lc 15,6.7.9.10.23.24.29.32) và có bốn điểm nhấn mạnh: 1) Những lý do đưa
đến niềm vui: vui vì lời Loan báo phổ quát dành cho mọi người, vì Cộng đoàn được sinh ra từ Lời Loan báo; vì Ơn Cứu độ dành
cho bất cứ ai tiếp
nhận Lời Loan báo và gắn bó mật
thiết với nhau; 2)
Hoán cải là điều kiện để tìm thấy niềm vui; 3) Hạnh phúc hệ tại ở việc sẵn sàng
thông phần cùng một niềm vui của Thiên Chúa trong việc phân phát ơn cứu độ; 4)
Lời kêu gọi chia sẻ tình yêu và niềm vui của Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô.
17. HỎI: Trong các dụ
ngôn, thường xuyên dùng thuật ngữ: ‘Mất’, Thánh Luca muốn dạy cho chúng ta những
gì, khi biến từ ấy thành một điệp khúc?
THƯA: Mặc dù
được Thiên Chúa để ý chăm sóc qua lòng thương xót vô hạn của Người, con người
có thể bị hư mất. Điều đó có thể xảy đến vì nhiều lí do: vì lười biếng, vì thiếu
khôn ngoan cân nhắc, vì sống lâu ngày xa cách Thiên Chúa, vì một cái nhìn hoàn
toàn trần tục về cuộc sống, vì tự phụ, coi mình công chính hơn người khác, vv.
18. HỎI: Chìa khóa cho bài Tin mừng tìm ở đâu?
THƯA: Chìa khóa để hiểu đoạn nầy có lẽ nằm trong những hàng đầu
tiên: ‘người nầy tiếp đón và ăn uống với
những người tội lỗi’. Người Pha-ri-sêu rất ý thức về sự thánh thiện của
Thiên Chúa và dưới mắt họ, giữa Thiên Chúa và những người tội lỗi không bao giờ
có sự tương hợp; vậy nếu Chúa Giê su đến từ Thiên Chúa, thì Ngài không thể đồng
bàn với người tội lỗi.
19. HỎI: Mục đích của bài dụ ngôn là gì?
THƯA: Chúa Giê su kể lại bài dụ ngôn là để giúp họ khám phá khuôn mặt
đích thực của Thiên Chúa Cha.
20. HỎI: Nhóm người Pha-ri-sêu kêu trách Chúa Giê su về những
điểm nào?
THƯA: Nhóm người Pha-ri-sêu kêu trách Chúa Giê su vỉ Ngài tiếp đón
người tội lỗi và đồng bàn với họ.
21. HỎI: Tại sao trách Chúa Giêsu đón tiếp người tội lỗi?
THƯA: Theo quan niệm của giới Pha-ri-sêu và Luật sĩ Do thái, người
thu thuế và tội lỗi không phải là thành phần của cộng đoàn Dân Chúa. Họ hiểu
sai câu nói: Thiên Chúa yêu thương những người công chính và chê ghét người tội
lỗi, và bắt mọi người cũng phải hiểu và hành động như họ. Nhưng Chúa Giê su đã
làm ngược lại khi ân cần đón tiếp người tội lỗi.
22. HỎI: Còn ăn uống với người tội lỗi?
THƯA: Điều phàn nàn thứ hai còn nặng nề hơn: ‘Ông ta ăn uống với người tội lỗi’. Đối với người thời xưa, ăn uống
không chỉ là chung mâm, chung bàn, mà còn là hiệp thông, liên đới với nhau. Vì
thế ăn uống với người tội lỗi là muốn hiệp thông với họ. Đó là một điều tuyệt đối
cấm kị đối với người Pha-ri-sêu.
23. HỎI: Như vậy, các dụ ngôn trong đoạn nầy nhắm đến mục đích
gì?
THƯA: Các dụ ngôn trong
chương 15 nhắm mục đích biện hộ, bênh vực thái độ của Chúa Giê su đối với những
người tội lỗi. Họ cần phải hoán cải, nhưng sự hoán cải không còn là điều kiện
tiên quyết để được Thiên Chúa ân cần đón tiếp. Ngài như người mục tử cất bước
đi tìm con chiên lạc chứ không chờ con chiên lạc quay bước trở về.
24. HỎI: Đâu là điểm chính yếu trong chương nầy?
THƯA: Chúa Giê su mời gọi mọi người chung vui với Thiên Chúa Cha khi
có một tội nhân trở về với Ngài. Đó là niềm vui lớn, tương tự như người cha đã
lạc mất con nay lại tìm thấy.
25. HỎI: Tại sao người cha
không đi tìm đứa con hoang đàng trở về?
THƯA: Người cha không lên đường tìm đứa con hoang đàng trở về là vì
ông tôn trọng sự tự do của nó.
26. HỎI:
Người con cả tượng trưng cho ai?
THƯA: Thái độ và lời nói cho thấy anh ta tượng trưng cho người
Pha-ri-sêu và các Luật sĩ.
27. HỎI: Thái độ người con cả như thế nào?
THƯA: Khi nghe tin em mình vừa trở về và được Cha cho dọn tiệc ăn mừng,
người con cả đã vô cùng tức giận và từ chối vào nhà. Anh ta cho rằng cha mình
đã xử sự bất công, khiến quyền lợi của anh bị thiệt thòi. Thật giống như người
Pha-ri-sêu đã vô cùng căm phẫn trước những gì xem ra bất công đối với họ.
28. HỎI: Anh ta đã nói gì?
THƯA: Trước tiên, anh ta đã tự hào nói về mình, về lòng trung thành
của mình đối với cha, giống như thái độ tôn giáo của giới Pha-ri-sêu và Luật
sĩ: trung thành làm tôi Thiên Chúa, ra sức lo lắng để đừng bao giờ trái lệnh của
Ngài. Rồi anh còn nói đến em mình bằng một giọng vô cùng khinh bỉ, giống như giới
Pha-ri-sêu thường hay khinh miệt người khác.
28. HỎI: Người con thứ biểu trưng cho ai?
THƯA: Người con thứ biểu
trưng cho người tội lỗi mà theo cái nhìn của người Pha-ri-sêu, trùng khớp với
diện mạo của một người ngoại giáo. Sau khi nhận được phần gia tài thuộc về
mình, anh trẩy đi xa (vùng ngoại giáo); sống tiêu xài phóng đảng cho đến hết tiền
của (chỉ những ngoại giáo mới sống như thế). Và cuối cùng làm nghề chăn heo
(nghề của người ngoại bị người Do thái khinh miệt).
30. HỎI: Người cha trượng trưng cho ai?
THƯA: Người cha tượng trưng cho Thiên Chúa hết sức vui mừng khi đứa
con bỏ nhà ra đi trở về.
31. HỎI: Bài dụ ngôn mạc khải như thế nào về lòng thương xót của
Thiên Chúa?
THƯA: Dụ ngôn cho ta biết về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với
tội nhân. Ngài đã đi tìm gặp họ trước khi họ lên đường tìm về với Ngài. Ngài hết
sức vui mừng khi một tội nhân trở về, sẵn sàng tha thứ hết mọi tội lỗi, và
không trừng phạt họ. Và cuối cùng ban cho họ một sự thay đổi toàn diện thành một
con người mới.
32. HỎI: Thực
thi sứ điệp Lời Chúa như thế nào?
THƯA: 1. Cậy trông và đón nhận Lòng Chúa Thương Xót: càng thánh
thiện người Ki-tô hữu càng ý thức tình trạng yếu đuối, tội lỗi của mình và càng
cảm thấy nhu cầu cần được Thiên Chúa xót thương và thứ tha. 2. Rao truyền và thể hiện Lòng Chúa Thương Xót với
mọi người: trong đời sống gia đình, cộng đoàn và xã hội. Đó là sứ mạng của
chúng ta.
GLCG 545. Chúa Giêsu mời những kẻ tội lỗi vào bàn tiệc Nước
Thiên Chúa: ‘Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội
lỗi’ (Mc 2,17). Người mời gọi họ hối cải, vì không hối cải thì không thể vào Nước
Người, nhưng Người cũng dùng lời nói và hành động cho họ thấy lòng thương xót
vô biên của Cha Người đối với họ, và ‘trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì
một người tội lỗi ăn năn sám hối’ (Lc l5,7). Bằng chứng cao cả nhất của tình
yêu này, là việc Người dâng hiến mạng sống mình ‘cho muôn người được tha tội’
(Mt 26,28). (x. Chúa Giê su đến vì những người tội lỗi 545. Nhân từ với họ 589.
Bí tích Sám Hối 1423. Phê rô sám hối 1439. Hiệu quả bí tích sám hối 1468. Phẩm
giá con người1700. Xin tha nợ chúng con 2839).