LỄ
THÁNH GIA
Một gia đình chỉ tìm được ý nghĩa trong cuộc sống
hướng về Thiên Chúa. Khi giới thiệu Thánh Gia cho chúng ta, Phụng vụ đặt cho
chúng ta câu hỏi: đâu là Gia đình Thực sự.
Sách 1 Samuel 1, 20-22.24-28
Chúng ta thấy cha mẹ của Samuel thực hiện bổn phận
đi trình diện con mình cho Chúa và dâng hiến cho Người bởi vì, nói cho cùng,
đứa bé không thuộc về họ. Để đứa con có thể yêu thương và tự hiến sau nầy, nó
cần phải được cưu mang trong tình yêu, được lớn lên trong tình yêu, được cảm
nghiệm bầu khí yêu thương chung quanh nó. Sứ điệp cần phải gửi đến cho các gia
đình thế giới trong ngày chủ nhật hôm nay chính là sứ điệp tình yêu.
Thánh Vịnh 83
Có những lúc trong cuộc sống, gia đình của chúng
ta thiếu vắng tình yêu, sự dịu dàng và hiểu biết lẫn nhau. Cùng với tác giả
thánh vịnh, chúng ta hãy xin Đấng là Tình yêu đổ tràn tình yêu cho gia đình
chúng ta.
Thư 1 Gioan 3, 1-2.21-24
Thánh Gioan nói với chúng ta về gia đình con cái
Thiên Chúa và mời gọi chúng ta tiếp tục cố gắng trong bản thân mình để cải
thiện các mối tương quan của chúng ta với người khác.
Tin mừng Lc 2, 41-52
NGỮ CẢNH
Trình thuật trung gian giữa thời thơ ấu của Chúa
Giê su và sứ vụ công khai của Ngài cũng được đặt trong đền thờ Giê ru sa lem,
vốn là chủ đề ưa thích trong Tin mừng Luca (x. Lc 1,9; 24,53). Có thể coi đây
là câu chuyện bổ sung các câu truyện về thời thơ ấu của Chúa Giê su mà thánh
Luca muốn cung cấp cho độc giả hầu mang lại một tia sáng mới soi chiếu vào mầu
nhiệm Chúa Giê su. Nhưng ở đây, chính Chúa Giê su là tác giả. Trình thuật kể
lại cuộc hành hương lên đền thờ Giê ru sa lem (2, 41-42), việc lạc mất Chúa Giê
su (2, 43-45), việc tìm ra Ngài và cuộc đối thoại lạ lùng giữa Chúa Giê su và
cha mẹ Ngài (2, 47-50); việc Chúa Giê su trở về Nagiarét và câu điệp khúc nói
về sự trưởng thành của Ngài (2,51-52) đã được tác giả Luca dùng để khép lại
trình thuật. Hậu cảnh của trình thuật nầy cũng như trình thuật dâng con, chúng
ta có thể tìm thấy trong lời tiên tri Ma la ki 3, 1-4.
TÌM HIỂU
Lễ Vượt Qua: là một đại lễ của người Do Thái, họ
qui tụ lại để mừng kỷ niệm cuộc giải phóng của họ: Chúa Giê su, trong bản thân
Ngài đã mở rộng đại lễ theo chiều kích phổ quát và vĩnh cửu. Trên nền tảng của
khung cảnh của lễ Vượt qua cũ, bằng lối hành xử riêng của mình, Chúa Giê su
loan báo lễ Vượt Qua mới và quyết định.
Mười hai tuổi: là lứa tuổi mà người ta trao cho
thiếu niên Do Thái cuộn sách Lề luật, trong một nghi lễ biến cậu trở thành một
chủ thể của Lề Luật.
Sau ba ngày: Am chỉ đến biến cố Phục sinh, khi
Chúa Giê su biến mất trong ba ngày.
Các thầy dạy: đây là lần đầu tiên Chúa Giê su gặp
gỡ với các đại diện chính thức của Lề Luật, trong một khung cảnh lạ lùng, một
đứa bé qui tụ chung quanh mình các vị chức sắc cao cấp của Do Thái giáo. Chúa
Giê su được trình bày với sự thông hiểu sâu xa về lề luật và với tất cả cá tính
của Ngài. Khung cảnh nầy báo trước những cuộc chạm trán nẩy lửa giữa Ngài với
các vị tiến sĩ Luật: Ngài ban cho họ chìa khoá giải thích Thánh Kinh là chính
cuộc đời của Người.
Ngạc nhiên: lúc nầy Chúa Giê su chưa phải là một
người lớn, nhưng đã cho thấy một sự khôn ngoan siêu việt hơn hẳn các bậc thầy
trong dân Israel (x. Tv 119, 99-100).
Tại sao?: đây là lời đầu tiên của Chúa Giê su
trong Tin Mừng Luca. Đáp lại câu hỏi của Đức Maria, Chúa Giê su trả lời bằng
một câu hỏi kép. Câu thứ nhất báo trước câu hỏi sẽ được đưa ra cho các người
phụ nữ đi đến mồ (24, 6) mời gọi một đức tin chưa được soi sáng cần phải đi xa
hơn. Câu thứ hai dựa vào lời qui chiếu mà Đức Maria đã nói về Ong Giuse là
“Cha” (2, 48): câu nầy là cơ hội để Chúa Giê su nói về mối tương quan của Người
với Cha. Chúa Giê su mời gọi sự hiểu biết của Đức Maria và ông Giuse: lẽ ra các
Ngài phải biết, và một ngày nào đó sẽ biết, về căn tính và sứ mạng của Chúa Giê
su.
Con có bổn phận: một lời nói lên một nhu cầu thầm
kín, đã thúc đẩy Chúa Giê su chấp nhận thực hiện chương trình của Thiên Chúa,
hoàn thành Thánh Kinh liên quan đến Đấng Messia. Trong cuộc sống công khai,
Chúa Giê su thường qui chiếu đến mối tương quan ràng buộc nầy (4,43;
13,33,19,5; 22,37), đặc biệt về cuộc Khổ nạn (9,22; 18,25; 24,7.26,44; Cv
17,3). Đối với Chúa Giê su, sự tùng phục đưa đến cái chết, nhưng vì Thiên chúa
là Cha, thì đây là sự vâng phục của con cái, hoàn thành trong một sự tín thác
từ bỏ.
Ở nhà Cha con sao?: Chúa Giê su không nói: “ở
trong đền thờ”, hoặc “ở giữa các thầy Tiến sĩ”. Ngài muốn nói rằng: ở với
Cha tôi; lo việc cho Cha tôi, trong nhà Cha tôi. Và Ngài nói đến điều đó một
cách mới mẻ, vì Ngài gọi Thiên Chúa là Cha Ngài. Đức Maria vừa nói về cha Ngài,
ông Giu se, còn Chúa Giê su thì nói về Cha của Ngài và về lất cả những gì liên
kết Ngài với Cha. Do đó, ngài tạo một khoảng cách với cha mẹ Ngài và tuyên bố
phục vụ cho Cha.
Câu nói ấy mạc khải căn tính đích thực của Chúa
Giê su, tương quan ưu tiên nối kết Ngài với Thiên Chúa. Sau nầy, khi nói về
Thiên Chúa, Chúa Giê su nhiều lần nói: “Cha” (9,26; 10,21;
22,42,23,34-46); hoặc “Cha tôi” (10,22; 24,49). Như thế Chúa Giê su nhìn nhận
tước hiệu là Con Thiên Chúa mà Thiên sứ loan báo (1, 32.35). Trong phép rửa và
cuộc biến hình, Thiên Chúa sẽ gọi Ngài là “Con Ta” (3, 22; 9, 35).
Nhưng hai ông bà không hiểu: Chúa Giê su đã thực
hiện một hành vi đoạn tuyệt đối với cha mẹ mình và mời gọi họ chấp nhận tất cả
mọi sự từ bỏ mà sứ mạng Ngài sau nầy sẽ đòi hỏi. Nhưng hai ông bà không hiểu gì
cả. Cũng như các vị tiến sĩ, hai ông bà ngạc nhiên về sự hiểu biết của Chúa Giê
su. Nhiều chi tiết (lạc mất và tìm lại được sau 3 ngày, “tại sao tìm con”
(24,5) cho thấy Luca đã hiểu biến cố nầy như báo trước biến cố phục sinh.
Đi xuống: sau khi lên Giê ru sa lem, Chúa Giê su
và cha mẹ ngài đi « xuống » về làng Na gia rét, sống một cuộc sống
bình thường như mọi người và với mọi người.
Vâng phục: sự sẵn sàng của Thiên Chúa giờ được
diễn tả qua sự vâng phục cha mẹ, chờ ngày sẽ dứt khoát lìa xa. Khi thưa
« vâng » với Cha, Ngài đã thưa « vâng » với tất cả mọi thực
tại của một cuộc sống giữa loài người.
Mẹ Ngài: x.2, 19.
Chúa Giê su ngày càng thêm khôn ngoan: giờ đây tác
giả hướng mọi sự chú ý trên chính Chúa Giê su khi đề cập đến sự lớn lên về phần
thể chất và thiêng liêng. Luca trích lại ở đây một bản văn nói về bé Samuel
(1Sm 2, 26) chỉ thêm từ « khôn ngoan » (x.2, 40). Tuy nhiên từ chủ
yếu đối với Luca là từ « ân sủng ». Nó nói lên sự trợ giúp của Thiên
Chúa trên tất cả những gì mà Chúa Giê su đã làm ở Nagiarét, khi ngài cầu
nguyện, làm việc, phục vụ mọi người.
Tin mừng về thời niên thiếu khởi sự ở Giêrusalem,
kết thúc ở Nagiarét. Ngược lại, sứ vụ công khai khởi sự ở Nagiarét (4, 16) và
kết thúc ở Giêrusaelm (24, 53). Từ đó khởi đầu sứ mạng của Hội Thánh bành
trướng cho đến tận Rôma, trung tâm thế giới dân ngoại theo Luca (Cv 28).
SỨ ĐIỆP
Trong bầu khí lễ Giáng sinh, Phụng vụ mời gọi
chúng ta mừng lễ Thánh gia của Đức Giê su, Đức Maria và Thánh Giu se. Đó là một
gia đình nhân lọai rất đơn sơ, nhưng hoàn toàn để cho đức tin hướng dẫn. Chúa
Giê su, Con vĩnh cửu của Cha, đã nhập thể trong một gia đình nhân lọai, gia
đình của Đức Maria và Thánh Giu se. Chính từ các Ngài mà Chúa Giê su đã học
cách làm người, đã tiếp nhận những cách thức nhìn và hành động đánh dấu từng
giai đoạn lớn khôn của đứa trẻ, có ảnh hưởng trong suốt cả cuộc đời. Cũng chính
từ cha mẹ mà Ngài đã học ngôn ngữ loài người để sau nầy có thể sử dụng để nói
Lời Thiên Chúa.
Biến cố được tin mừng kể lại hôm nay là câu chuyện
duy nhất mà người ta biết được về cuộc đời thơ ấu của Chúa Giê su. Vào lúc Đức
Maria và Thánh Giu se rời Giê ru sa lem để trở về Na gia rét, Chúa Giê su không
đi theo các ngài, nhưng còn nán lại trong Đền thờ. Đó không phải là do tính khí
thất thường hay khinh suất trẻ con, nhưng là do một quyết định tự ý và có suy
nghĩ. Ngài muốn cho thấy rằng ở trong Đền thờ, nhà Thiên Chúa Cha Ngài, cũng là
ở trong nhà Ngài. Trước khi là con Đức Maria Ngài đã là Con Thiên Chúa Cha Ngài
Tất cả chúng ta đều hiểu được nỗi lo âu của Đức
Maria và Thánh Giu se: lo cho con có thể bị bọn cướp bắt cóc, hoặc bị tai nạn.
Và cũng như mọi bậc cha mẹ có con bị lạc mất, các ngài sợ điều tệ hại hơn có
thể xảy ra cho con mình. Sau ba ngày vất vả tìm kiếm khắp nơi, các ngài mới tìm
gặp Ngài trong Đền thờ, đang tranh luận với các thầy tiến sĩ Luật.
Trong nỗi âu lo đè nặng, Đức Maria không thể che
dấu sự đau khổ của mình: “Tại sao con đã làm cho cha mẹ như thế?”. Chúa Giê su
đã trả lời: “Cha mẹ không biết rằng con phải ở trong nhà của Cha con sao?”.
Ngài cho họ thấy rằng Ngài hòan toàn dấn thân lo phục vụ Cha mình. Từ lúc còn
trẻ, Ngài đã là người thờ phượng tuyệt hảo. Ngài luôn đặt sứ mạng của mình
trước mọi quan tâm khác. Chắc chắn Đức Maria và Thánh Giu se đã phải trải qua nhiều
khó khăn để có thể gắn bó với chương trình mầu nhiệm của Thiên Chúa đối với
Chúa Giê su, con của họ. Đó là cả một cuộc hành trình dài trong đêm tối.
Rồi đến một ngày kia, khoảng hai mươi năm sau, một
lần nữa Đức Maria lại mất Chúa Giê su. Dưới chân thánh giá, mẹ sẽ sống lại cuộc
Khổ nạn đau đớn tột cùng. Nhưng lần này, sau ba ngày mẹ sẽ gặp lại Ngài. Ngài
sẽ không còn ở nhà, không còn ở trong Đền thờ Giê ru sa lem nữa, mà ở trong nhà
Cha Ngài. Biến cố Phục sinh soi sáng biến cố được kể lại trong đoạn tin mừng
chủ nhật hôm nay. Toàn bộ sách Tin mừng cho thấy Chúa Giê su thật sự say mê
tình yêu đối với Cha Ngài, được tỏ hiện ngay từ những năm tháng đầu đời, như
trong biến cố được thuật lại hôm nay.
Sứ điệp Tin mừng hôm nay là bài học cho cuộc sống
và có ý nghĩa về vị trí mà chúng ta dành cho Thiên Chúa trong gia đình. Nó nhắc
chúng ta nhớ rằng tất cả phải tùy thuộc vào Thiên Chúa, rằng Thiên Chúa phải
được phụng thờ trên hết mọi sự. Người mong muốn rằng chúng ta phải dành cho
Người vị trí tuyệt đối ưu tiên trong cuộc sống của chúng ta.
Kinh nghiệm lạc mất con của Đức Maria và Thánh cả
Giuse cũng là một bài học lớn trong việc giáo dục con cái. Mọi cuộc sinh ra đều
có nghĩa là một sự đoạn tuyệt, mọi đường lối giáo dục đều luôn bao hàm một sự
xa cách. Cầu nguyện và để cho con trẻ lớn lên, để cho nó thành người, là làm
chứng cho một tình phụ tử đến từ nơi khác. Cha mẹ không sở hữu con mình, không
làm chủ được tương lai nó, nhưng nâng đỡ con trong quá trình đi đến tự do. Điều
đó gọi là tình yêu. Các bậc cha mẹ luôn ngạc nhiên khi thấy con cái mình “ngày
càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa”. Khi đứa con vuột khỏi tầm
tay mình, có nghĩa là nó lớn rồi (G. Defois).
Ước gì Gia đình thánh giúp chúng ta tập sống phó
thác hòan toàn cho Lời Chúa trong đêm tối của lòng tin, qua những khó khăn,
nghi ngờ và thử thách trong cuộc sống nầy. Ước gì nhờ gương sáng của Chúa Giê
su, Đức Maria và Thánh cả Giu se, chúng ta càng ngày càng khám phá sâu xa hơn
mầu nhiệm Thiên Chúa ẩn mình giữa chúng ta!
ĐÀO SÂU
GIA ĐÌNH
THÁNH THIỆN
1 Sm 1,11, 20-22, 24-28 Samuên đã cống hiến trọn
cuộc đời mình cho Chúa
Tv 84,1-2, 4-5, 8-9, 10 Lạy Chúa, hạnh phúc cho
người cư ngụ trong nhà Chúa
1 Ga 3,1-2, 21-24 Chúng ta được gọi là con Thiên
Chúa và quả thật là thế
Lc 2,41-52 Cha mẹ Chúa Giê su tìm gặp Ngài trong
nhà Cha Ngài
1. HỎI: Ba
bài đọc liên kết với nhau theo chủ đề nào?
THƯA: GIA ĐÌNH THÁNH THIỆN. Các
bài đọc đều nêu gương những gia đình thánh thiện. Trước hết, gương gia đình
Chúa Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse qua cuộc hành hương Giê-ru-sa-lem và
cuộc sống chung hòa thuận tại Na-gia-rét (BTM). Gương gia đình ông En-ca-na, bà
An-na và trẻ Sa-mu-en (Bđ1). Thiên Chúa sống với loài người như một gia đình,
trong đó Thiên Chúa là Cha và chúng ta là con (Bđ2).
2. HỎI: Sách
Sa-mu-ên là sách gì?
THƯA: Các sách Sa-mu-ên thuộc loại sách Sử. Lúc đầu trong Kinh
thánh bằng tiếng Híp-ri, Sa-mu-ên chỉ là một quyển nhưng trong bản dịch tiếng
Hi Lạp (bản 70) thì sách được chia ra làm hai. Từ đó, các bản dịch tiếng La
Tinh và các ngôn ngữ khác cũng theo sự phân chia này. Sách Sa-mu-ên kể lại lịch
sử Ít-ra-ên từ khi dân vào đất Canaan đến thời lưu đày. Sách không ghi chép lịch
sử theo cách hiện đại nhưng ngang qua các biến cố nói đến mối quan hệ của Thiên
Chúa với dân Người. Thiên Chúa đã chọn Ít-ra-ên làm dân riêng, đã giải thoát họ
khỏi ách nô lệ Ai Cập và đã ký kết giao ước với họ. Nếu trung thành với luật
giao ước thì dân sẽ thịnh vượng và bình an; ngược lại, họ sẽ phải chịu hình phạt
từ những tai họa thiên nhiên đến sự xâm lăng của quân thù và cả sự lưu đày nữa.
3. HỎI: Đâu
là bối cảnh lịch sử câu truyện kể lại trong bài đọc 1?
THƯA: Chúng ta đang ở cuối thời
kì các thủ lãnh. Sau khi Mô-sê chết và dân Híp-ri đi vào đất hứa vào khoảng năm
1200 trước Công Nguyên, các bộ tộc định cư trong xứ và cuộc chinh phục chậm
chạp ấy đã kéo dài khỏang 150 năm. Trong thời gian đó vẫn chưa có hệ thống cai
trị tập trung. Đứng đầu mỗi bộ tộc là một lãnh tụ mà người ta gọi là ‘các Thủ
lãnh’ theo nghĩa ‘thống đốc’, vừa là tướng trận, vừa là người đứng đầu chính
trị và tôn giáo, vừa là quan án lo giải quyết các cuộc tranh chấp kiện tụng
trong dân.
4. HỎI: Còn
bối cảnh tôn giáo thì sao?
THƯA: Về tôn giáo cũng chưa có
Thành Giê-ru-sa-lem và Đền thờ. Hòm bia Giao Ước đồng hành với dân trong suốt
cuộc hành trình về đất hứa thì được đặt trong Đền Thánh Si-lô, trung tâm
Pa-lét-tin 30 ki lô mét về phía Bắc Giê-ru-sa-lem hiện nay, dưới sự chăm sóc của
Thầy cả Ê-li (không phải tiên tri Ê-li-a sống sau nầy ở thế kỉ thứ 9). Vì Đền
Thánh Si-lô có Hòm bia Giao Ước nên đã trở thành trung tâm hành hương hằng năm
cho dân Ít-ra-ên.
5. HỎI: Bài
đọc 1 nội dung như thế nào?
THƯA: Bài đọc một là câu chuyện
về gia đình bà An-na hiến thánh bé Sa-mu-ên cho Thiên Chúa. Trước đó, vợ chồng
bà An-na tuy đã cao niên nhưng không có con. Đó là nỗi nhục nhã cho gia đình.
Bà An-na liền đi đến Đền thờ Si-lô khấn xin với Thiên Chúa. Được Thiên Chúa
nhậm lời, năm sau bà An-na sinh con, chồng bà đã lên Đền thánh dâng hi lễ tạ ơn
Thiên Chúa như đã khấn hứa. Còn bà An-na thì chờ đến khi con dứt sữa, đã đem
Sa-mu-ên lên đền thánh và để con ở lại đó phụng sự Thiên Chúa suốt đời như lời
bà đã hứa.
6. HỎI: Tại
sao câu chuyện nầy được chọn cho Thánh lễ Gia thất?
THƯA: Thưa vì ba lí do: Một là
Thiên Chúa lắng nghe. Đó là ý nghĩa của tên gọi Sa-mu-ên: Thiên Chúa lắng nghe,
Thiên Chúa chấp nhận. Như trường hợp của An-na, từ nỗi ô nhục, bà đã kêu lên
Chúa và Chúa đã lắng nghe và giải cứu.
7. HỎI: Lí
do thứ hai?
THƯA: Hai là qua lịch sử con
người, qua các gia đình nhân loại mà Thiên Chúa đã thực hiện chương trình của
Người.
8. HỎI: Và
lí do thứ ba?
THƯA: Thứ ba, chúng ta đang
đứng trước hai cuộc sinh ra mầu nhiệm: của Chúa Giê su và của Sa-mu-ên, ngoài
ra Kinh thánh còn ghi lại nhiều cuộc sinh ra tương tự. Điều ấy nhắc chúng ta
nhớ rằng mọi đứa bé sinh ra đều là một phép lạ, một quà tặng của Thiên Chúa.
Chỉ có Người mới có thể ban sự sống. Còn phần đóng góp của chúng ta là đem cuộc
sống và mọi khả năng chúng ta có cộng tác vào chương trình của Người.
9. HỎI: Bài
đọc 2 (Thư 1 Ga 3,1-2.21-24) có nội dung như thế nào?
THƯA: Thánh Gioan nhắc chúng ta
nhớ rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vì thế hãy luôn sống với Ngài như con
thảo bằng cách tuân giữ các giới răn của Ngài, nhất là giới răn yêu thương
nhau.
10. HỎI: Ngữ
cảnh bài Tin mừng như thế nào?
THƯA: Bài Tin mừng trích đoạn
chương 2 thuộc phần Tin mừng (c.1-2) kể lại những biến cố xảy ra thời niên
thiếu của Chúa Giê su như: chào đời, cắt bì, Gioan và Chúa Giê su tỏ mình ra.
Việc tìm lại Chúa Giê su được đặt trong bối cảnh đền thờ vốn là diểm nhấn trong
Tin mừng thánh Luca (x.2, 46; 24,53). Thánh Lu ca cũng muốn đề cao việc Chúa
Giê su đã ý thức mình là Con Thiên Chúa ngay từ còn thơ ấu. Có các ý sau đây 1)
Khung cảnh (2,41-42); 2) Bị lạc mất Đức Giêsu (2,43-45); 3) Tìm ra Đức Giêsu
(2,46-48); 4) Câu nói của Đức Giêsu (2,49); 5) Các Kết luận (2,50-52).
11. HỎI: Có
thể tóm tắt ý nghĩa bài Tin mừng như thế nào?
THƯA: Bài Tin mừng cho thấy
Chúa Giê su mạc khải mầu nhiệm của Ngài, nhưng những người thân của Ngài đã
không hiểu. Có thể dùng câu Tin mừng thánh Gioan nói về mầu nhiệm Chúa Giê su
để tóm tắt nội dung bài Tin mừng hôm nay: ‘Ngài đã đến nhà mình, nhưng người
nhà chẳng chịu đón nhận’ (Ga 1, 11).
12. HỎI: Mầu
nhiệm của Chúa Giê su thể hiện như thế nào?
THƯA: Trong biến cố nầy, mầu
nhiệm Chúa Giê su thể hiện trước tiên qua sự kinh ngạc của tất cả mọi người,
đặc biệt các tiến sĩ Luật trước ‘trí thông minh và những lời đối đáp của Ngài’.
Kế đến qua khoảng thời gian ba ngày ở lại trong đền thờ, là thời gian cần thiết
để gặp gỡ Thiên Chúa, và cũng sẽ là thời gian Chúa Giê su ở trong mồ trước khi
Sống lại. Và cuối cùng qua câu nói lạ lùng của Chúa Giê su: ‘Con phải ở trong
nhà Cha con…’
13. HỎI: Tại sao hàng năm, Thánh Gia phải lên Giê-ru-sa-lem?
Họ không thể mừng lễ Vượt qua tại Nazareth sao?
THƯA: Lề luật Mô-sê bắt buộc
tất cả mọi người thuộc dân Ưu tuyển, trừ trẻ em, người già, người bệnh và những
người nô lệ, một năm ba lần phải lên đền thờ Giê-ru-sa-lem để long trọng mừng
các ngày lễ lớn của người Do Thái, đó là: Vượt qua, Lễ Ngũ Tuần và Lễ Lều.
14. HỎI: Các
lễ trên có cùng một ý nghĩa tôn giáo như lễ Phục sinh và Hiện xuống của chúng
ta ngày nay không?
THƯA: Chính xác là không, đối
với người Do Thái, các ngày lễ lớn ấy có giá trị không những về mặt tôn giáo mà
còn về lịch sử và dân tộc vì giúp họ nhớ lại các sự kiện quan trọng trong lịch
sử.
Lễ Vượt qua nhắc lại việc chuyển từ chế độ nô lệ
sang tự do và phải được cử hành vào ngày thứ 14 của tháng đầu tiên, gọi là Abib
(sau này gọi là Nisan, tương ứng khoảng tháng Tư dương lịch. X. Xh 12-13; 23
Lv, Đnl 16, 2 Các Vua 23,21-23; 2 Bns 35,1-19; Ez 45,21-24 ; Ds 9,1-14).
Lễ Ngũ Tuần đã được cử hành vào cuối vụ thu hoạch,
để cảm tạ Thiên Chúa cho vụ mùa. Đây là lễ quan trọng thứ hai sau lễ Vượt qua,
thường nhằm vào ngày thứ 50, tức là đúng 7 tuần sau khi dâng các bó lúa đầu mùa
trong ngày lễ Bánh Không Men.
Lễ Hiện Xuống nhớ lại việc Thiên Chúa ban Mười
Điều Răn trên núi Si-nai cho ông Mô- sê, 50 ngày sau khi rời khỏi Ai Cập (Xh
34,22; Đnl 16,10.16 2 Bns 8,13, Xh 23,16; Ds 22,26).
Lễ Lều cũng ghi nhớ cuộc xuất hành từ Ai Cập, được
tổ chức vào ngày 5 của tháng Tishri (tháng 9-10 dl). Các tín hữu dựng lên những
túp lều, mô phỏng các túp lều được ông Mô-sê cho xây dựng trong sa mạc, và hân
hoan rước lên đền thờ (Lv 23, 39tt).
15. HỎI: Tại
sao Thánh Gia đã hành hương lên Giê-ru-sa-lem chỉ một lần trong năm?
THƯA: Bởi vì những người Do
thái ở xa Giê-ru-sa-lem cũng như những người sống trong vùng ngoại đạo khó mà
chấp hành luật buộc này. Vì thế, họ chọn dâng cho Thiên Chúa hy lễ mỗi năm một
lần, vào dịp lễ Vượt qua. Thánh Gia cũng đã làm như thế vì sinh sống ở
Na-gia-rét.
16. HỎI: Tác
giả Luca viết: ‘các ngày thánh đã xong….’, có bao nhiêu ngày?
THƯA: Lễ Vượt qua thường kéo
dài bảy ngày, và kết thúc bằng một nghi lễ long trọng đặc biệt, tuy nhiên,
không buộc phải ở lại Thành Thánh cả tuần. Thánh Lu ca gợi ý cho biết cha mẹ
của Chúa Giêsu ở đó cho đến hết lễ.
17. HỎI:
Việc Chúa Giêsu lạc mất trong Đền thờ có phải là do Thánh Giuse và Đức Maria sơ
suất hoặc quá tin tưởng vào sự trưởng thành của Chúa Giê su không?
THƯA: Không, cần phải loại bỏ
các lí do trên. Trong các cuộc hành, trẻ em thường đi chung với bạn bè và người
thân nên đi lạc là một việc ít xảy ra. Hơn nữa, cha mẹ Chúa Giê su vẫn để cho
Ngài tự do vì thấy Ngài đã khôn lớn. Tuy nhiên, lý do thực sự phải được tìm
kiếm trong sự kiện là Chúa Giêsu đã có kế hoạch riêng để thực hiện và một sứ
mạng để hoàn thành tại trung tâm Do thái giáo khi đã đến 12 tuổi.
18. HỎI:
Thánh Luca muốn dạy chúng ta điều gì khi nói rằng Chúa Giêsu đã lắng nghe họ và
hỏi họ?
THƯA: Thánh Luca muốn cho thấy
rằng dù mới mười hai tuổi, Chúa Giê su đã tranh luận như một vị tiến sĩ hoàn
toàn thông thạo về Lề luật Mô-sê. Ngài đã lắng nghe ý kiến của các luật sĩ, rồi
đặt cho họ những câu hỏi và trả lời cho họ một cách rõ ràng và sâu sắc khiến họ
phải ngạc nhiên và cảm phục.
19. HỎI:
Chúa Giê su mạc khải điều gì khi nói: ‘Con có bổn phận phải ở nhà của Cha con
sao?’
THƯA: Qua câu nói ấy, Ngài tự
khẳng định rõ ràng là Con Thiên Chúa. Khi truyền tin, thiên thần Ga-bri-ên đã
cho biết Ngài là ‘Con Đấng Tối Cao’ nhưng tên gọi ấy chỉ được hiểu như là tước
hiệu của Đấng Mê-si-a. Lần nầy, mạc khải tiến xa hơn: tước hiệu Con Thiên Chúa
áp dụng cho Chúa Giê su không chỉ là một tước hiệu chỉ Vua nhưng nói lên mầu
nhiệm Chúa Giê su là Con Một Thiên Chúa.
20. HỎI: Đức
Maria có hiểu ngay những gì đã xảy ra trong biến cố Chúa Giê su đi lạc không?
THƯA: Thánh Luca luôn gợi ý
rằng Đức Maria đã không hiểu ngay tất cả những gì xảy ra chung quanh. Như trong
biến cố Giáng sinh, sau khi các mục tử đến Bết-lê-hem và trở về, thánh Luca đã
ghi nhận: ‘Riêng Mẹ Ngài thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng’ (Lc
2,19). Và bây giờ cũng thế, Mẹ tiếp tục ghi nhớ và tìm hiểu trong suốt cuộc
đời. Rõ ràng, niềm tin của Đức Maria cũng là một cuộc chinh phục nhiều thử
thách giống như chúng ta.
21. HỎI:
Thánh Luca muốn dạy điều gì khi viết về Chúa Giê su ‘ngày càng thêm tuổi, càng
thêm khôn ngoan, và khôn lớn’?
THƯA: Thánh Luca muốn nói rằng,
Chúa Giê su dù là Con Thiên Chúa, nhưng khi làm người thì cũng cần phải lớn lên
giống như mọi đứa trẻ khác. Còn Thiên Chúa, Người cũng kiên trì chờ đợi chúng
ta trưởng thành: đối với Người, ngàn năm cũng chỉ như một ngày (Tv 89/90).
22. HỎI: Tại
sao Chúa Giê su vừa cho biết phải ở nhà của Cha là Đền thờ Giê-ru-sa-lem, rồi
ngay sau đó cùng với cha mẹ trở về nhà ở Na gia rét?
THƯA: Bé Sa-mu-ên trong bài đọc
thứ nhất được hiến thánh cho Chúa và đã sống suốt đời ở Đền thánh Si-lô để phụng
sự Người. Còn Chúa Giê su thì khác hẳn. Ngài cũng phụng sự Thiên Chúa nhưng ở
ngoài Đền Thánh và hướng tới dân tộc mình. Đối với Ngài, ở nhà Cha trước tiên
có nghĩa là phục vụ anh em mình.
23. HỎI:
Giáo Hội được soi sáng bởi những suy tư của Kinh Thánh đã nghĩ thế nào về gia
đình?
THƯA: Giáo Hội coi gia đình như
là xã hội tự nhiên đầu tiên, sở hữu các quyền đặc biệt và căn bản và đặt gia
đình ở trung tâm của đời sống xã hội. Thật vậy, gia đình sinh ra từ sự hiệp
thông mật thiết trong cuộc sống và tình yêu vợ chồng, dựa trên hôn nhân giữa
một người nam và một người nữ, mang một chiều kích xã hội đặc thù và nguyên
thủy, vì đó là nơi đầu tiên phát sinh các mối quan hệ giữa các cá nhân. Do vậy,
gia đình là một tổ chức do Thiên Chúa thiết định làm nền tảng của tất cả các tổ
chức xã hội khác.
24. HỎI:
Hình ảnh Con Thiên Chúa, để lớn lên như là một người thực sự cần Mẹ Maria và
Thánh Giuse, dạy chúng ta hôm nay những gì?
THƯA: Trong gia đình, sự trao
ban cho nhau của người đàn ông và người đàn bà kết hợp trong hôn nhân tạo nên
một môi trường sống cho đứa trẻ có thể phát triển tiềm năng và nhận thức được
phẩm giá của mình để chuẩn bị đương đầu với cuộc sống độc nhất và không thể tái
diễn lại.
25. HỎI:
Phải sống sứ điệp hôm nay như thế nào?
THƯA: Những cử chỉ, lời nói và suy nghĩ của Thánh
Gia đều xuất phát từ một nguồn suối là lòng mến đích thực. Vì thế chúng ta hãy
tích cực bắt chước các ngài: Người Cha phải có tâm tình siêng năng cần mẫn,
nhất là tính tình điền đạm sẽ giúp cho gia đình vượt qua mọi thử thách khó
khăn. Người mẹ phải có tình yêu sâu xa sẽ giúp cho con cái trưởng thành về mọi
phương diện. Là con thì phải luôn biết vâng lời cha mẹ, nhờ đó sẽ hóa giải được
mọi hiểu lầm giữa cha mẹ với con cái và còn giúp cho cha mẹ ‘hằng ghi nhớ tất cả
những điều ấy trong lòng’ để theo dõi tương lai của người con. Chúng ta hãy cầu
xin cho có được những tâm tình tốt đẹp ấy.
GLCG 534 Việc tìm thấy Chúa Giêsu trong Đền thờ[128] là biến cố duy nhất phá vỡ sự im lặng
của các sách Tin mừng về những năm tháng ẩn dật của Chúa Giêsu. Ở đây, Chúa Giêsu
cho chúng ta thoáng thấy mầu nhiệm của sự tận hiến của Người cho sứ vụ xuất
phát từ tư cách làm Con Thiên Chúa của Người. ‘Cha mẹ không biết là con có bổn
phận ở nhà của Cha con sao?’ (Lc 2,49) Đức Maria và thánh Giuse ‘không hiểu’
lời này, nhưng đón nhận lời ấy trong đức tin, và Đức Maria ‘hằng ghi nhớ những
điều ấy trong lòng’, suốt những năm dài Chúa Giêsu ẩn mình trong sự thinh lặng
của cuộc đời bình thường. A: Chúng ta đang ở cuối thời kì các quan án. Sau khi
Mô sê qua đời và dân Híp pri vào đất hứa vào khoảng năm 1200 trước Công Nguyên,
các bộ tộc dần dần định cư trong xứ và cuộc chinh phục lâu dài ấy đã mất khỏang
150 năm. Trong thời gian đó vẫn chưa có hệ thống cai trị tập trung. Đứng đầu
mỗi bộ tộc là một lãnh tụ mà người ta gọi là “các Thủ lãnh” theo nghĩa “thống
đốc”, vừa là tướng trận, vừa là người đứng đầu chính trị và tôn giáo, vừa là
quan án lo giải quyết các cuộc tranh chấp và kiện tụng trong dân.
Về tôn giáo cũng chưa có Thành Thánh và Đền thờ
Giê ru sa lem. Hòm bia Giao Ước đồng hành với dân trong suốt cuộc hành trình về
đất hứa được đặt trong Đền Thánh Si lô, ở trung tâm Pa-lét-tin, 30 ki lô mét về
phía Bắc Giê ru sa lem hiện nay. Đền thánh nầy được đặt dưới sự chăm sóc của
Thầy cả Hê li. Vỉ có Hòm bia Giao Ước nên Đền Thánh Si lô đã trở thành trung
tâm hành hương hằng năm cho dân Ít ra ên.