Suy Niệm
Lời Chúa Chúa Nhật Tuần XXXIII Thường Niên Năm A
Chúng ta được mời gọi
đến tham dự sự sống của Thiên Chúa. Nhưng có nhiều lần xác tín ấy lại bị phai
mờ bởi hình ảnh một Đấng tạo hóa độc tài tiền định tất cả mọi sự. Nhiều người
khẳng định chắc chắn được vào Thiên đàng bởi vì đã không bao giờ làm điều xấu
đối với Thiên Chúa. Đó là một thái độ thiếu tôn trọng đối với Chúa và tỏ ra
hiểu sai về trách nhiệm của riêng mỗi người chúng ta.
Sách Khôn Ngoan 31,
10-13.19-20.30-31
Đoạn mô tả người phụ nữ
hoàn hảo chắc chắn làm nhiều người thời nay ngạc nhiên, vì thật quá xa lạ với
lí tưởng của người người nữ thời đại chúng ta. Nhưng điều quan trọng ở đây là
cách thức mà một người mẹ gia đình đáp ứng hoàn toàn ơn gọi của mình, theo cách
đánh giá của thời đó.
Thánh Vịnh 127
Hạnh phúc người tín hữu
luôn hướng lòng về Chúa, lo tìm cách đáp trả sự chờ đợi của ngài, người ấy sẽ
đạt được thành công mỹ mãn.
Thư 1 Têxalônica 5, 1-6
Thánh Phao lô vừa
trả lời cho các thính giả của Ngài về việc Nước Thiên
Chúa đến. Ngài từ chối đáp ứng tính tò mò của họ về ngày
giờ Chúa Trở lại. Điều quan trọng, đó là sống dưới sự hiện diện của Thiên Chúa,
sẵn sàng đón tiếp đón Ngài bất cứ lúc nào. Người Ki tô hữu phải là người tỉnh
thức số một.
Tin mừng: Mt 25: 14-30
NGỮ CẢNH
Đoạn Tin Mừng nầy nằm
trong diễn từ cánh chung (24, 3-25, 46), đi liền sau dụ ngôn mười cô trinh
nữ, nhằm giải thích lời khuyên đi trước đó: “Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì
anh em không biết ngày nào, giờ nào. Quả thế, như có người kia sắp đi xa.”
(25, 13). Do đó, điểm nhấn của dụ ngôn là: “Hãy tỉnh thức”.
Có thể đọc
đoạn văn theo bố cục như sau:
1. Giới thiệu các nhân
vật: ông chủ và các đầy tớ (14-18)
2. Ông chủ tính sổ
(19-30)
TÌM HIỂU
Ông cho người nầy năm
yến, người kia hai yến: Các
yến vàng ở đây là gì? Có nhiều cách giải thích: có thể hiểu đó là các khả năng
tự nhiên, là Tin mừng hay Lời Thiên Chúa, hoặc là chính Chúa Giê su Ki tô được
Thiên Chúa ban cho các môn đồ. Cũng có người hiểu đó là những anh em phải giúp
đỡ hay dẫn đến về đức tin, là trách nhiệm lãnh đạo trong thế gian hay trong
Giáo hội. Cũng có thể là của cải vật chất phải được làm lợi “cho Thiên Chúa”
v.v. Trong các cách giải thích trên, cách thích hợp hơn cả với chiều hướng Mt
là đồng hóa các nén vàng với Tin mừng, hoặc chính xác hơn, với sự hiểu biết mà
mỗi người phải có về Tin mừng (c.15). Không có nghĩa là Tin mừng có thể được
tăng lên nhiều, nhưng theo nghĩa là sự hiểu biết của mỗi người về Tin
mừng phải kết thành hoa trái phuc vụ và yêu thương tha nhân. Theo cách đó,
Tin mừng không tăng lên nhiều, nhưng được “khai thác, áp dụng” trong đời sống
mỗi người, tuỳ theo ân huệ Thiên Chúa đã ban (ánh sáng, quảng đại, can đảm,
kiên nhẫn v.v.). Giá trị một yến bạc (= talanton) khá lớn: tương
đương với 35 kg (Israel) hoặc 21-26 kg (Hilạp), hay 10.000 quan (một quan là
tiền lương một ngày làm việc).
Ít: Kiểu nói nầy hơi lạ, vì thực ra các đầy tớ ấy
đã nhận một số vốn kếch xù từ tay ông chủ rồi. Trong Lc (19, 17) thì dễ hiểu
hơn. Như thế, số tiền vốn ông chủ trao cho họ xem ra đã được thổi phồng lên
trong truyền thống Mt. Nhưng dù bị coi là thiếu mạch lạc, bản tin mừng Mt vẫn
giữ lại chữ “ít” trong các nguồn tài liệu của ông; điều nầy chứng tỏ ông hết
sức trung thành trong việc lưu truyền cách toàn vẹn các dữ kiện của truyền
thống.
Tôi đâm sợ: Một vài tác giả nhấn mạnh rằng người đầy tớ
nầy đã không yêu mến chủ mình; ý tưởng nầy nếu không theo nghĩa mặt chữ thì
cũng tiềm ẩn trong chiều sâu của bản văn; vì Thiên Chúa của người tôi tớ lười
biếng nầy chẳng phải là Thiên Chúa của Tin mừng thứ nhất sao?
Anh đã biết tôi gặt
chỗ không gieo, thu nơi không vãi: Ông chủ bắt đầu lặp lại những gì mà người tôi tớ vừa nói về ông.
Ông không tự bào chữa nhưng chấp nhận, ít ra là trên giả thuyết, ý tưởng người
tôi tớ có về ông. Chính khi đi vào quan điểm của người tôi tớ mà ông sắp cho
thấy y sai lầm. Nếu cho ông là người hà khắc và bốc lột, thì đương nhiên y đã
phải biết cẩn thận gửi tiền vào ngân hàng để sinh lời, một chuyện không khó
khăn gì hết. Đó là cái tối thiểu mà người ta có thể đòi hỏi trong những hoàn
cảnh như vậy. Thành thử tên đầy tớ bất hảo, dù đứng trong quan điểm hẹp hòi và
sợ sệt của y, vẫn đã hành động không hợp lý với chính mình.
Vì phàm ai đã có, thì
được cho thêm: Chúng ta đã gặp câu
nầy ở câu 13, 12; chắc hẳn đây là một câu tục ngữ bình dân, hay một lời nói của
Chúa Giêsu đã được Mt tách ra để đặt ở đây. Nó tóm tắt dụ ngôn cách tuyệt vời:
trong ngày Chung thẩm, kẻ có, nghĩa là kẻ đã trung thành làm các việc tầm
thường trong đời sống trần gian, sẽ nhận được một phần thưởng lớn; nhưng kẻ
không có gì, nghĩa là đã bất trung hay lười biếng, sẽ bị nghiêm trị.
Chỗ tối tăm bên
ngoài: nói đến hình phạt trầm
luân đời đời (x.Mt 22, 13).
SỨ ĐIỆP
Dụ ngôn các nén bạc.
Dụ ngôn nầy, ai trong
chúng ta cũng đều thuộc lòng vì đã nghe qua rất nhiều lần. Khi nói đến các nén
bạc, chúng ta thường nghĩ ngay đến các đức tinh hay tài năng cần phải phát
triển. Đó chắc chắn là đúng, nhưng điều mà Chúa Giê su hôm nay muốn nói với
chúng ta quan trọng hơn.
Vào thời Chúa Giêsu, một
nén thường là một khối vàng hoặc là bạc nặng ba mươi hay sáu mươi
kí lô, tương đương với tiền lương trong hai mươi hoặc ba mươi năm
làm việc, thường là cả một cuộc đời. Một nén, hai nén và nhất là năm nén, đó là
cả một tài sản kết xù. Vì thế, trong dụ ngôn hôm nay, các nén bạc ám chỉ đến
những số tiền to lớn vô cùng được ban tặng miển phí.
Nếu Chúa Giêsu dùng
những hình ảnh mạnh mẽ như thế, thì rõ ràng Ngài muốn gửi đến chúng ta một sứ
điệp quan trọng. Ngài muốn cho chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa giao miễn phí cho
chúng ta những của cải quí giá nhất. Những của cải nầy tiếp tục thuộc về Ngài.
Điều Ngài đòi nơi chúng ta, đó là quản lí, là làm lợi bằng tất cả những cố gắng
của chúng ta. Của cải được giao phó cho chúng ta, đó là tin mừng của Chúa Giêsu
Kitô. Tin mừng ấy, giống như một ánh sáng mà chúng ta phải chuyển thông để soi
sáng thế gian. “Hãy đi khắp muôn dân, chiêu tập môn đệ.” (Mt 28, 19).
Các nén bạc ấy, một
tài sản không lồ, là chính Nước Trời mà chúng ta phải làm cho lớn lên.
Ai đã lãnh nhận năm nén, phải làm lợi năm nén khác; ai đã lãnh nhận hai nén
cũng phải làm như vậy. Điều quan trọng không phải là số lượng mà là việc mỗi
người phải chu toàn trong trách nhiệm của mình ở bất cứ nơi mà Thiên Chúa đã
đặt để. Chúng ta phải tỏ ra xứng đáng với lòng tin cậy mà Thiên Chúa gửi gắm
nơi chúng ta. Có nhiều ơn thiêng liêng, những chỉ có một Chúa hành động nơi mỗi
người. Vì thế mỗi người phải góp phần vào đó. Không ai khác có thể lãnh trách
nhiệm làm thay cho chúng ta. Vì sẽ có ngày Chúa trở lại, đó là lúc phải tính
sổ. Chúng ta đã làm gì với phép Rửa tội đã lãnh nhận? Chúng ta có dùng mọi năng
lực và trí khôn của chúng ta để phục vụ cho Nước Thiên Chúa không?
Các “đầy tớ trung
tín” được đưa vào hưởng niềm vui trong Nước Chúa mà họ đã tham
gia xây dựng. Ai không làm gì sẽ bị loại ra ngoài. Nhưng tội nặng nhất, đó là
lười biếng; thật ra, người ấy không hiểu đúng giá trị to lớn của số vốn đã được
“giao phó” cho mình. Người ấy không nhận ra lòng tin tưởng của Thiên Chúa. Lỗi
của anh ta là đã làm méo mó hình ảnh của Thiên Chúa, đã coi Ngài như một bạo
chúa không thể đến gần và đáng sợ. Khi nghi ngờ Ngài, anh ta đã làm sai lạc
những tương quan với Thiên Chúa. Trong khi Thiên Chúa đầy tình thương, thì anh
ta lại thấy Ngài là một đối thủ đáng sợ. Người nầy không thể đi vào niềm vui
của Chúa bởi vì anh tự kết án chính mình khi đóng cửa với Thiên Chúa. Con người
đầy sợ hãi, vì đã thiếu điều cốt yếu: anh ta không yêu thương “chủ mình”.
Tin mừng nói với chúng
ta về một “Ông chủ” để cho chúng ta biết Thiên Chúa là ai. Nhưng để hiểu rõ,
đoạn tin mừng nầy cần phải được các đoạn tin mừng khác soi sáng. Thiên Chúa
trước tiên là Cha, một người Cha yêu thương từng đứa con của mình. Ngài là Cha
của đứa con trai hoang đàng và đã ăn mừng lớn khi nó quay trở về nhà Cha. Điều
mà Chúa Giêsu bác bỏ, không phải là những con người, mà là một thái độ đối với
Thiên Chúa rất có thể là của chúng ta. Cả chúng ta cũng có thể bị nguy cơ chỉ
nghĩ đến sự an toàn của cá nhân mình. Có người nghĩ rằng khi cẩn thận tuân giữ
lề luật của Ngài, khi trả lại cho Ngài đúng y số vốn mà Ngài đã giao cho, là đã
có tương quan tốt với Thiên Chúa. Người ấy trả lại những gì Chúa ban cho đã làm
cho Ngài thất vọng vì Ngài đang chờ đợi nhiều hơn. Ngài chờ đọi một sự dấn thân
liều mạng sống cho Ngài. Ngài chờ đợi đức tin. Vì phép Rửa và phép Thêm sức mà
chúng ta đã lãnh nhận, chúng ta phải quan tâm đến những điều Thiên Chúa quan
tâm, chúng ta phải đặt trọn vẹn cuộc sống chúng ta nơi Ngài. Ai tin tưởng thì
dám liều mạng, liên tục được thúc đẩy vượt qua chính mình và làm hết sức mình.
Chúng ta đã lãnh nhận
Tin mừng. Tin mừng ấy cần phải được loan truyền và cho mọi người được
biết. Là môn đệ Chúa Giêsu, tức là phải làm lợi cho Nước Trời đã được giao phó
cho chúng ta. Tin mừng đã được ban cho chúng ta không phải để chúng ta giữ kĩ
trong tâm hồn, mà là để chúng ta làm ra hoa trái. Và mỗi người trong chúng ta
đều có trách nhiệm về việc kết trái nầy, vì sẽ có một ngày chúng ta phải trả
lẽ.
Tin mừng mà chúng ta
tiếp nhận, đó là “Tin mừng loan báo cho người nghèo”. Mỗi người trong chúng ta
có thể tự hỏi: chúng ta đã làm gì với những người bất hạnh nhất trong xã hội
chúng ta? Tất cả những người ấy nằm trong kho tàng lớn lao mà Thiên Chúa giao
phó cho chúng ta. Họ là những người Ngài yêu thương nhất. Chúng ta không thể
xây dựng và phát triển Nước Thiên Chúa mà không chiến đấu chống lại sự nghèo
đói, bạo lực và mọi hình thức bất công. Chính trong điều kiện đó chúng ta mới
có thể sinh hoa trái cho Nước Chúa, và nhờ đó mà chúng ta sẽ đi vào trong niềm
vui của Thiên Chúa.
ĐÀO SÂU
SINH HOA TRÁI CHỜ CHÚA
TRỞ LẠI
Cn 31, 10-13.19-20.30-31 Phụ
nữ đảm đang biết dùng tài năng sinh hoa trái
Tv 128, 1 Phúc
thay người đầy tớ tín trung, Thiên Chúa sẽ giao phó nhà Ngài
1Tx 5, 1-6 Chúng
ta hãy tỉnh thức để chờ Chúa đến
Mt 25, 14-30 Hãy
làm cho ơn Chúa sinh hoa trái
1. HỎI: Các bài đọc được
liên kết theo chủ đề gì?
THƯA: SINH HOA
TRÁI CHỜ CHÚA TRỞ LẠI. Dụ ngôn các nén bạc trách người đầy tớ biếng nhác đã
chôn dưới đất kho tàng được giao phó (BTM). Anh ta không giống như người phụ nữ
đảm đang tháo vát việc nhà để mang lại hạnh phúc cho mọi người (Bđ1). Thánh
Phao-lô nhắc chúng ta đừng mê ngủ nhưng hãy tỉnh thức (Bđ2) vì hạnh phúc ai
kính sợ Chúa và đi theo đường lối của Ngài (Tv).
2. HỎI: Sách Châm Ngôn là sách gì?
THƯA: Sách Châm ngôn thuộc loại sách Khôn ngoan trong
Cựu Ước được viết vào khoảng thế kỉ thứ 5 trước Công Nguyên. Đó là một bộ sưu
tập những câu châm ngôn dạy lẽ khôn
ngoan - nghĩa là cách sống làm sao cho phù hợp với thánh ý Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh ở đời.
Bên cạnh đó, nó còn đề cập đến luân lý sống hòa thuận trong gia đình và ngoài xã hội.
3. HỎI: Nội dung bài đọc
một (Cn 31, 10-13.19-20.30-31) nói
về điều gì?
THƯA: Bài đọc một gồm các trích đoạn từ chương
31 là bài thơ ca tụng người phụ nữ
lí tưởng, thành công trong cuộc sống. Người phụ nữ như thế đem lại cho những
người lân cận điều mà Thiên Chúa ước mơ ban cho nhân loại, đó là hạnh phúc.
4. HỎI: Người vợ đảm
đang là người như thế nào?
THƯA: Là người phụ nữ biết dùng tài đức của mình đem
lại hạnh phúc cho gia đình. Đó là người lao động giỏi, đảm đang việc nhà,
cần mẩn chăm sóc chồng con, và không quên rộng tay cứu giúp người nghèo và bất
hạnh.
5. HỎI: Kính sợ Đức Chúa
(c 30) là sao?
THƯA: Kính sợ Thiên Chúa có nghĩa yêu thương và trung
thành với Người. Kính sợ Thiên Chúa như thế là khởi đầu cho sự Khôn Ngoan (Cn
9, 10).
6. HỎI: Thế nào là người
phụ nữ lý tưởng?
THƯA: Là người phụ nữ để cho mình thấm nhuần sự khôn
ngoan của Thiên Chúa, để phản chiếu sự khôn ngoan của Người trong mọi lãnh vực
cuộc sống, từ ngôn từ hành vi cho đến cách sống.
7. HỎI: Kinh Thánh còn
có những đoạn nào ca tụng người phụ nữ nữa không?
THƯA: Có nhiều. Chúng ta có thể kể: Sáng thế kí
1, 27. Trong khi ở Ba-bi-lon người ta cho rằng người phụ nữ được tạo dựng sau
người đàn ông, nghĩa là người đàn ông có thể sống mà không cần đàn bà, thì Kinh
Thánh quả quyết rằng: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên
Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ”, nghĩa là ngay từ đầu.
Hay đoạn Stk 2, 18-24 mô tả người phụ nữ như một người đồng hàng với đàn ông vì
cùng bản tính với đàn ông “xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!”.
Trong Stk 2, 18 gọi người phụ nữ là: “một trợ tá tương xứng với nó”, một
người đối thoại ngang hàng như bạn bè.
8. HỎI: Nội dung bài đọc
hai (1Tx 5, 1-6) như
thế nào?
THƯA: Thánh Phaolô nhắc lại lời dạy của Đức Giêsu:
Không ai biết được ngày giờ Chúa đến vì thế phải khôn ngoan tỉnh thức.
9. HỎI: Ngữ cảnh bài tin
mừng (Mt 25, 14-30) như
thế nào?
THƯA: Đoạn Tin Mừng nầy thuộc thành phần diễn từ cánh
chung (Mt 24, 3-25,46), đi liền sau dụ ngôn mười cô trinh nữ, nhằm giải thích
lời khuyên trước đó: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày
nào, giờ nào. Quả thế, như có người kia sắp đi xa...” (25, 13). Do đó, điểm
nhấn của dụ ngôn là: “Hãy tỉnh thức”. Có 3 ý chính: 1. Daẫn nhập: Ông
chủ giao tiền cho các đầy tớ (25, 14-15); 2. Các đầy tớ hành xử với số tiền
được giao (25, 16-18); 3. Ông chủ tính sổ với các đầy tớ (25, 19-30).
10. HỎI: Hai người đầy
tớ đầu tiên do đâu mà được chủ khen ngợi?
THƯA: Hai người đầy tớ được chủ khen ngợi vì đã
tin vào lòng tin tưởng vững chắc mà ông chủ dành cho mình khi được giao phó
nhiều của cải. Họ còn dám mạnh dạn đầu tư vào những việc rất nguy hiểm.
11. HỎI: Còn người thứ
ba?
THƯA: Người thứ ba thì có thái độ ngược lại.
Thay vì tin vào ông chủ, anh ta lại sợ vì anh nghĩ rằng ông chủ khó tính. Anh
ta không hiểu rằng, khi đã giao cho anh một số vốn lớn như vậy, ông chủ đã hoàn
toàn đặt tin tưởng nơi anh.
12. HỎI: Bài học ấy dành
cho ai?
THƯA: Giáo huấn ấy dành cho các môn đệ. Trong
suốt thời gian chờ Chúa trở lại như lời Ngài đã hứa, các môn đệ phải biết khôn
ngoan gìn giữ kho tàng Lời Chúa: phải có những sáng kiến làm cho Lời Chúa sinh
hoa trái như lời Ngài dạy: “chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để
anh em ra đi, sinh được hoa trái” (Ga 15, 16). Họ không được sợ, vì “Tình
yêu không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi”
(1Ga 4, 18).
13. HỎI: Câu: “Phàm
ai đã có thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có thì ngay cái đang
có, cũng sẽ bị lấy đi”. Phải hiểu như thế nào?
THƯA: Mới nghe thì dường như bất công, nhưng thực ra
đó không phải là lời lên án mà là một lời cảnh báo: Khi người ta chọn đúng
hướng, thì mỗi phút, mỗi bước chân đưa ta đến gần mục tiêu hơn; còn ai quay
lưng lại thì mỗi phút, mỗi bước chân làm chúng ta xa lìa mục tiêu hơn. Trong
sách Châm Ngôn cũng nói điều tương tự: “Hãy giáo huấn người khôn, họ sẽ khôn
hơn nữa. Hãy dạy bảo người công chính, họ sẽ hiểu biết thêm” (9, 9).
14. HỎI: Đặt trong bối
cảnh lịch sử cuộc đời Đức Giê-su, dụ ngôn có nghĩa gì?
THƯA: Đức Giê-su nói dụ ngôn nầy trước cuộc Khổ nạn. Vì thế, Ngài
chính là ông chủ đi xa. Trước khi đi, Ngài giao phó kho tàng Lời Thiên Chúa cho
các môn đệ với ước mong là họ có những sáng kiến và can đảm chấp nhận nguy hiểm
để cho Lời Chúa mang lại hoa trái. Đức Giê-su mời gọi họ phải tin tưởng vào
Ngài, đừng sợ sống Lời Chúa và để cho Lời Chúa biến đổi cuộc sống.
15. HỎI: Dụ ngôn “các
nén vàng” gửi đến chúng ta sứ điệp gì?
THƯA: Dụ ngôn các nén vàng mời gọi chúng ta bao
lâu còn sống trên thế gian phải trung thành và chuyên cần làm việc để những ơn
lành cũng như mọi tài năng mà Ngài đã ban cho chúng ta được sinh hoa trái.
16. HỎI: Trong bài tin
mừng có thêm lời khuyên “tỉnh thức” không?
THƯA: Có. Tuy nhiên lời khuyên ấy được trình bày
dưới góc cạnh khác. Đó là phải tỉnh thức, chuyên cần làm cho những “nén
vàng” đã lãnh nhận sinh hoa trái và phát triển. Đó là trách nhiệm mà
người kitô hữu phải hoàn thành cho thật tốt.
17. HỎI: Phải làm lợi
cho “số vốn tin mừng” như thế nào?
THƯA: Nén vàng quí giá nhất Chúa ban chính là
tin mừng. Khi nhận được rồi, người ta không có quyền để nó nằm yên, bất
động chẳng sinh lợi. Nhưng phải để cho Tin mừng biến đổi mình và trong mọi hoạt
động, phải cảm hứng từ đó để cuộc sống được thấm nhuần tinh thần tin mừng. Chỉ
như thế họ mới tỏ ra “trung thành” với Đấng đã yêu thương và tin tưởng
trao cho họ.
18. HỎI: Ông chủ trong
dụ ngôn dường như biết rõ các đầy tớ của mình?
THƯA: Đúng vậy. Ông biết khả năng của từng người
đầy tớ nên đã giao của cải tùy theo khả năng đó. Ông chủ trong dụ ngôn chính là
hình ảnh của Thiên Chúa. Ngài biết rõ cách sống, khả năng của từng người, nên
phân phát ơn ban tùy theo mức độ đáp trả của họ. Ai có thể làm lợi nhiều, sẽ
được giao nhiều, còn ai làm lợi ít, sẽ được giao ít.
19. HỎI: Tại sao hai
người đầy tớ trung thành được chủ khen ngợi?
THƯA: Hai người đầy tớ trung tín đã đơn giản làm
điều chủ mong chờ họ. Họ đã làm một cách vui vẻ hăng say. Như thế, họ chứng tỏ
mình khắng khít với chủ. “Nếu các ngươi giữ lệnh truyền của Ta, các ngươi sẽ
lưu lại trong lòng yêu mến của Ta” (Ga 15, 10). Họ chẳng làm gì phi thường
mà chỉ chu toàn bổn phận mình, đã tìm cách khai thác trong cuộc sống sức mạnh
của Tin mừng luôn thúc đẩy họ yêu mến, và điều đó làm ông chủ hài lòng: ông
kính trọng và đối xử với họ như bạn hữu, và mời họ vào hưởng hạnh phúc của ông:
“Tôi tớ lương hảo cùng trung trực, hãy vào trong hoan lạc của chủ ngươi”.
20. HỎI: Tội của người
đầy tớ thứ ba hệ tại ở đâu?
THƯA: Người đầy tớ bất trung ấy đã không hiểu
rằng, khi trao cho y một phần gia sản mình, ông chủ đã tỏ ra hoàn toàn tin
tưởng ở anh. Anh đã chẳng khám phá ra tình yêu và lòng tin tưởng của chủ. Vì
thế anh đã luôn sống trong nỗi lo sợ.
21. HỎI: Đó có phải là
hình ảnh của những tín hữu bất trung không?
THƯA: Phải. Đó là hình ảnh của người Kitô hữu
nào hôm nay chỉ xem Tin mừng là một bản liệt kê các điều răn và huấn lệnh thay
vì là một tin vui cứu độ và là lời mời gọi yêu thương mọi người anh em. Họ xem
Thiên Chúa như một ông chủ khó tính, đòi hỏi quá nhiều điều mà họ không thể chu
toàn được. Sống đức tin trở thành một cuộc sống đầy vất mà không thấy hứng thú
gì.
22. HỎI: Trong dụ ngôn
có ba người tôi tớ, nhưng thực sự chỉ có hai mẫu người phục vụ, đó là những mẫu
người nào?
THƯA: Mẫu người phục vụ tốt và trung tín, cần
mẫn làm việc cho chủ, và mẫu người phục vụ xấu từ chối làm việc và phán quyết
bất công cho ông chủ. Từ đó, có hai cách phục vụ Thiên Chúa: hoặc trung
thành làm việc để làm cho những gì Ngài ban được sinh hoa trái, phục vụ Giáo
Hội và tha nhân. Hoặc từ khước chống lại quyền của Ngài, không làm gì cả khiến
cho những ơn ban của Ngài trở nên vô ích.
23. HỎI: Do đó, ông chủ
lên án người đầy tớ?
THƯA: Không, chính người ấy tự lên án mình, vì
anh ta đã hành động trái lệnh của chủ. Vấn đề ở đây không phải là làm lợi ít hay
nhiều, mà là vâng lệnh làm theo lời chủ dạy. Đối với Thiên Chúa cũng thế, người
tôi tớ cần phải vâng lời và làm theo những gì Ngài dạy bảo. Chính thái độ bất
tuân đã lên án những người tôi tớ xấu xa.
24. HỎI: Đâu là hoàn
cảnh phát sinh dụ ngôn ấy?
THƯA: Dụ ngôn trên đây có lẽ phát xuất từ hoàn
cảnh một cộng đoàn đang mê ngủ, an nhàn, bằng lòng với những gì mình đang thụ
hưởng mà không tìm cách phát triển trong cuộc sống đức tin. Ngày hôm nay hơn
bao giờ hết, dụ ngôn ấy có tính thời sự. Thực vậy, một Kitô giáo im lìm, nhạt
nhẽo, ươn lười không phải là tôn giáo mà Đức Giêsu mong muốn.
25. HỎI: Một kitô giáo
như vậy có ích lợi không?
THƯA: Không, không có ích lợi gì cả. Người kitô hữu
phải nhiệt thành, không sợ loan báo Đức Kitô và tin mừng. Nếu thực sự người
kitô hữu tin rằng họ đã nhận được đầy đủ mặc khải về Thiên Chúa, nếu thực sự họ
tin rằng Con Thiên Chúa đã tận hiến cuộc sống trong bí tích Thánh Thể, thì làm
sao có thể im lặng và giữ kho tàng phong phú thiêng liêng và nhân bản ấy riêng
cho mình được.
GLCG 673 1040 1048. Từ khi Đức Kitô lên trời, ngày quang lâm vinh hiển của Người
luôn gần kề (x.Kh 22, 20), mặc dù chúng ta "không biết thời giờ và kỳ hạn
Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt" (Cv 1, 7) (x. Mc 13, 32). Cho dù ngày
quang lâm và "những thử thách cuối cùng phải xảy ra trước đó" (2 Th
2, 3-12) (x. Mt 24, 44; 1Th 5, 2) còn được Thiên Chúa "cầm giữ " lại,
ngày quang lâm vẫn có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Phaolô Nguyễn Văn Đông