TINH THẦN KHIÊM TỐN CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ ĐỨC KITÔ
Lời Chúa: Ga 1,19-28
(19) Và đây là lời chứng của ông Gioan, khi người Dothái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?" (20) Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: "Tôi không phải là Ðấng Kitô". (21) Họ lại hỏi ông: "Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Êlia không?" Ông nói: "Không phải." - "Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?" Ông đáp: "Không." (22) Họ liền nói với ông: "Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?" (23) Ông nói: Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Ðức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói. (24) Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pharisêu. (25) Họ hỏi ông: "Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Ðấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?" (26) Ông Gioan trả lời: "Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. (27) Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người." (28) Các việc đó đã xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan, nơi ông Gioan làm phép rửa.
Suy niệm
Phụng vụ hôm nay nhắc cho chúng ta chân dung của hai vị thánh xuất thân từ Đông Phương, thánh Basiliô (sinh năm 330 tại Xêdarê, miền Capađôcia) và thánh Grêgôriô (sinh năm 330, tại Na-zi-an). Cả hai vị, tuy theo hai con đường để đi tìm chân lý, nhưng đều có chung một đích điểm: hai vị là bạn và là những người có khát vọng đi tìm sự khôn ngoan của Thiên Chuá.
Thánh Basiliô vốn tinh thông về văn chương, lại nổi tiếng về đời sống nhân đức, ngài đã chọn đời sống đan viện trước khi được đặt làm giám mục thành Xêdarê; ngài đã soạn ra bộ luật cho đời đan tu, mà ngày nay các đan sĩ vùng Đông Phương còn dùng như chỉ nam cho đời đan tu ẩn dật cầu nguyện. Làm giám mục năm 370 tại nguyên quán của mình, thánh Basiliô đã tích cực chống lại những lạc thuyết của phái Ariô, bảo vệ sự tự do cho Giáo Hội và sự vẹn toàn của Đức Tin Công Giáo.
Đồng thời với ngài, thánh Ghêgôriô đã kết thân với thánh Basiliô, cùng chia sẻ chí hướng học hành và nếp sống đan tu. Làm giám mục năm 381 tại giáo phận thành Constantinôpôli, trong khoảng 18 tháng, thánh nhân lui về ẩn dật tại quê nhà, vùng Na-zi-an, theo một cuộc đời đan sĩ chiêm niệm trong cô tịch. Chính tại đó, ngài đã viết những áng văn thần học sâu sắc. Qua những tác phẩm thần học của ngài, người ta nhận thấy sự am tường thần học và đạo lý cao siêu của thánh nhân. Bài giảng của ngài trước cái chết của bạn mình là Basiliô đã cho chúng ta thấy sự khiêm tốn thẳm sâu của một con người sâu sắc về đạo lý, cũng như về đời sống tâm linh. Ngài viết: “Cả hai (chúng tôi) đều hướng tới một điều đáng mong ước hơn hết mọi sự, đó là sự hiểu biết. Tuy vậy, không hề có ganh tỵ mà chỉ có ganh đua. Cả hai cùng tranh nhau, không phải để tìm phần thắng cho mình, nhưng là để nhường cho người kia. Mỗi người đều coi vinh dự của bạn là của chính mình.” Tâm tình này ắt hẳn là bài học trân quý cho mỗi Kitô hữu chúng ta học biết, nhất là về tinh thần khiêm nhường học hỏi.
Bài Tin Mừng ngày hôm nay cũng cho chúng ta thấy một mẫu gương khiêm tốn là thánh Gioan Tẩy Giả. Một nơi khác trong Tin Mừng, đã có lần Đức Kitô khen ngợi thánh Gioan là vị ngôn sứ cao trọng nhất trong số các ngôn sứ (Mt 11,11). Nhưng thái độ của Gioan trong Tin Mừng hôm nay (Ga 1,19-28) cho thấy sự khiêm nhường tuyệt vời của vị Tiền Hô: “Tôi đây làm phép rửa torng nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi, và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” (Ga 1,26-27).
Đúng là sứ vụ của một ngôn sứ, tiên báo Đấng Mêsia sẽ đến: Thánh Gioan Tẩy giả đã đóng đúng vai trò của mình, ngài nhìn nhận sự thật về sứ vụ là dọn đường cho Đức Kitô đến, bằng việc dọn lòng cho dân chúng hoán cải và sẵn sàng tin vào Tin Mừng cứu độ mà Đức Giêsu mang đến trong trần gian. Thắc mắc của những người được sai đến với ông Gioan đã được giải thích thoả đáng, một khát vọng mong chờ chung của Dân Hípri: Mong Đấng Mêsia xuất hiện. Gioan không phải là Đấng Kitô, nhưng phép rửa mà Ngài thực hiện mang tính duy nhất, đúng hơn là mang tính cánh chung, để kêu gọi lòng dân trở lại với đường ngay nẻo chính; chuẩn bị cho dân đón nhận một Phép Rửa trong nước và thần khí mà Đức Kitô sẽ thực hiện.
Sứ vụ của Gioan, cũng như tấm gương của hai vị thánh mà Giáo Hội kính nhớ hôm nay cho chúng ta suy nghĩ về thái độ sống của chúng ta, với danh nghĩa là Kitô hữu. Chúng ta nghe nói nhiều đến sứ vụ ngôn sứ của Dân Thiên Chuá, và cũng là của từng Kitô hữu chúng ta (GLCG, số 785), một sứ vụ mời gọi chúng ta sống làm sao để trở nên nhân chứng của Đức Kitô giữa lòng đời vốn có nhiều biến chuyển này.
Trước hết, thiết nghĩ mỗi người chúng ta nên suy tư về việc đào sâu đời sống Đức tin của mình, cùng với cảm thức siêu nhiên của Đức Tin. Khi chúng ta có một cảm thức Đức Tin về Thiên Chuá, Đấng yêu thương và cứu chuộc chúng ta, như Đức Thánh Cha nói đến trong Tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng”, chúng ta có thể mạnh mẽ ác tín và hăng say làm chứng cho tình yêu Thiên Chuá trong cuộc đời: “Động lực đầu tiên cho việc loan báo Tin Mừng chính là tình yêu của Đức Giêsu mà chúng ta đón nhận được, cảm nghiệm được Đức Giêsu cứu độ thúc giục chúng ta yêu mến Người ngày một hơn. Nhưng tình yêu đó là gì nếu không chỉ dừng lại ở việc cần thiết phải nói về Ngài, giới thiệu về Ngài và làm cho người khác biết Ngài?” (số 264). Nhìn chung, cách sống đạo của Kitô hữu tại Việt Nam rất phong phú, nhưng thiết nghĩ một tinh thần ham học hỏi để đào sâu đời sống Đức tin cần được khai triển và sống cụ thể hơn trong đời sống thường ngày, hơn là chỉ dừng ở những hoạt động đạo đức. Việc đạo đức thì luôn tốt, nhưng sẽ phong phú và sinh ích lợi nhiều hơn nếu chúng ta đi vào chiều sâu của đời sống Đức tin, qua việc hăng say học Giáo Lý, tập chia sẻ Tin Mừng, và ngay cả chia sẻ những cảm nghiệm Đức Tin trong nhóm đạo đức mà chúng ta đang tham gia. Dĩ nhiên, việc chia sẻ này bao hàm cả hai chiều kích: Tôi muốn chia sẻ cảm nhận về tình thương Chuá đã dành cho tôi, và những bạn bè trong nhóm cũng sẵn lòng để lắng nghe những cảm nhận đó với lòng tôn trọng.
Hơn nữa, thái độ khiêm tốn luôn là điều đáng khích lệ cho mỗi người tín hữu chúng ta. Khiêm tốn là nhìn nhận đích thực những gì mình có, như thánh Gioan Tẩy Giả đã chứng tỏ cho chúng ta thấy. Đó không phải là nhìn nhận những gì mình có để vênh vang, tự cao tự đại; nhưng là để biết tạ ơn Chuá vì mọi ơn chúng ta có được đều là do ơn lành Chúa ban, chứ tự thân, con người không thể tự có được. Đồng thời ý thức rằng ơn Chuá ban là để làm cho mình nên tốt hơn, và để phục vụ Giáo Hội cùng xã hội. Hai điều này luôn phải đi đôi với nhau. Một đàng, mỗi người ý thức thân phận yếu hèn của mình để luôn cảnh giác với những thói hư tật xấu vốn có thể ngấm ngầm làm cho chúng ta ra kiêu ngạo, tự mãn. Đàng khác, phục vụ điều thiện, phục vụ công ích, mà tiên vàn là phục vụ những người thân cận của mình, là bổn phận và sứ mạng của mỗi Kitô hữu. Thái độ phục vụ cũng là điều đáng để chúng ta suy nghĩ: làm thế nào để có thể khiêm tốn phục vụ, để làm vinh Danh Chuá và vì lợi ích của tha nhân?
Ts. Đaminh Nguyễn Hữu Cường O.P