CHỦ NHẬT PHỤC SINH B
Giáo Hội đang ở
đỉnh
cao của
năm
Phụng
vụ
với
ngày lễ
lớn
nhất
trong năm,
ngày kỉ
niệm
sự
Phục
sinh của
Chúa Giê su. Vì tầm
quan trọng
ấy,
nên lễ
Phục
sinh được
chuẩn
bị
bằng
một
đêm canh thức
cầu
nguyện.
Đêm
canh thức
là vết
tích còn sót
lại của
những
đêm mà các tín hữu
đầu
tiên trải
qua để
chúc tụng
Chúa và cử
hành phép rửa
cho tất
cả
các dự
tòng.
Sách Cv 10,
34.37-43
Trong mùa Phục sinh nầy,
Giáo Hội
không đọc
lại
Cựu
ước
nữa,
bởi
vì ý nghĩa
của
Quá khứ
ấy
được
sáng tỏ.
Đó
chính là điều
mà các tông đồ
đã công bố
cho người
Do thái và cả
các dân ngọai.
Họ
là các Chứng
nhân của
Tin mừng
trong thế
giới.
Bằng
lời
đơn
sơ
dễ
hiểu,
nhưng
đầy
xác tín của
một
chứng
nhân, Thánh Phê rô đã tóm tắt cuộc đời
Chúa Giê su, từ
lúc rời
Na gia rét khởi
sự
rao giảng
cho đến
khi bị
giết
treo trên thập
giá rồi
sống
lại,
và cuối
cùng trao cho các tông đồ
sứ
mạng
làm chứng
cho Ngài.
Thánh vịnh 117
Khi hát Thánh vịnh nầy,
người
Do thái tưởng
nhớ
tất
cả
những
nguy hiểm
mà họ
đã gặp
và Chúa đã cứu
họ
trong suốt
lịch
sử
của
mình. Thánh vịnh
nầy
gợi
lại
cách thức
mà Thiên Chúa đã dùng để
xoay chuyển
các tình thế
nguy hiểm
nhất.
Được
hát lên sau ngày Đức
Ki tô sống
lại,
bài thánh vịnh
nầy
mang ý nghĩa
phong phú hơn.
Chúa Giê su bị
dân Ngài lọai
bỏ
đã trở
nên Nền tảng
tạo
dựng
một
Vũ
trụ
mới.
Thư Cl 3, 1-4
Phải sống
làm sao cho xứng
đáng với
với
cuộc
đời
mới
mà họ
đã bước
vào sau khi đã được
cùng chết
và cùng sống
lại
với
Đức
Ki tô trong bí tích thanh tẩy. Họ phải
ý thức
sự
khác biệt
trong đời
sống
mới
so với
đời
sống
cũ.
Nếu
trước
kia, họ
sống
theo tinh thần
và tiêu chuẩn
trần
gian, nhưng
giờ
thì phải
lo tìm kiếm
những
gì thuộc
thượng
giới.
Tin mừng Mc 16, 1-8
Ngài đã trỗi dậy
rồi,
không còn ở
đây nữa
NGỮ CẢNH
Nếu đoạn
Mc (16,9-20) là phần
thêm vào, thì đoạn
tin mừng
của
chúng ta là đọan
kết
luận
của
Mc. Tin mừng
kết
thúc với
sứ
điệp
phục
sinh hoàn toàn vượt
ngoài sự
hiểu
biết
của
con người:
Đức
Giê su Na gia rét đã sống
lại.
Chúng ta có thể đọc
đoạn
văn
theo bố
cục
như
sau:
1. Hoàn cảnh (cc.1-2)
2. Ngạc nhiên đầu
tiên (cc. 3-4)
3. Gặp gỡ
thiên thần
(cc.5-6)
4. Sứ điệp
thiên thần
(cc.6-7)
5. Kết luận
(8)
TÌM HIỂU
Ngày sa bát: ngày sa bát kết
thúc vào lúc trước
mặt
trời
lặn.
Như
thế,
vào buổi
chiều
các bà đi mua dầu
thơm.
Maria Mác đa la: cùng với
một
vài bà khác
(15,40), là chứng nhân gần thập
giá và việc
mai táng Chúa Giê su (15,47).
Ướp xác Chúa Giê su: đây không nói đến
kỹ
thuật
ướp
xác, nhưng
là tẩm
dầu
thơm,
theo phong tục
của
người
do thái nhằm
thanh tẩy
xác chết.
Cả Mt 28,1 và Ga 20,1 đều
không nói đến
dầu thơm
mua sau ngày sa bát: theo họ thì các bà đến chỉ
đơn
giản
để
“nhìn” mà thôi. Đối
với
Luca 23,56 thì các bà đã đi mua dầu thơm
trước
ngày sa bát
Sáng tinh sương: trọn
một
ngày đã qua kể
từ
buổi
chiều
khởi
đầu
ngày sa bát (15,42) và buổi
chiều
kết
thúc (16,1).
Do đó theo cách tính của người phương
đông là ngày hôm sau của
ngày tiếp
theo sau cái chết
của
Chúa Giê su.
Cách ghi chú thời biểu
trên ngoài giá trị
thực,
còn có giá trị
biểu
tượng
nữa:
khởi
đầu
một
tạo
dựng
mới,
được
soi sáng bởi
mặt
trời
mới là chính
Đức Ki tô phục
sinh. “Thành
chẳng cần
mặt
trời
mặt
trăng
chiếu
sáng, vì đã có vinh quang Thiên Chúa tỏ rạng,
và Con Chiên là ngọn
đèn chiếu
soi” (Kh
21,23).
Tảng đá: mối
bận
tâm muộn
màn của
các bà được
nói tới
ở
đây không nhằm
thông tin về
tâm lí của
các nhân vật,
nhưng
chỉ
nhằm
mục
đích giúp cho độc
giả
lần
lượt
nhận
ra tất
cả
tầm
mức
nơi
các sự
kiện
sẽ
được
trình bày – khối
đá được
đẩy
qua một
bên, ngôi mộ
trống.
Lời
giải
thích các sự
kiện
ấy
được
đặt
trên một
bình diện
không đơn
thuần
mang tính
cách nhân loại.
Lăn ra một
bên rồi:
bởi ai? Thể
thụ
động
gợi
ý là do hành động
của
Thiên Chúa.
Một người
thanh niên: cả
bốn
tin mừng
đều
nói đến
ngôi mộ
trống.
Lc đặt
ở
đó “hai người
đàn ông” mặc
áo trắng
sáng. Ga thì ”hai
thiên thần” ở 20,21. Nhưng
ở
20,1-2 thì lại
không ghi nhận
một
vị
nào cả.
Còn Maria thì nói đến
một
thiên thần
của
Chúa, diện
mạo
sáng chói như
“làn chớp”
đã lăn
tảng
đá ra và ngồi
trên đó.
Những sự
khác biệt
đó cho ta hiểu
rằng
các tác giả
tin mừng
phát hoạ
khung cảnh
không như
các sử
gia nhằm
cho biết
những
chi tiết
chính xác câu truyện,
nhưng
nhằm
giúp cho độc
giả
nhận
thức
mầu
nhiệm
của
đức
tin. Dường
như
theo truyền
thống
cổ
nhất
như
trong Ga 20,1-2, ở
ngôi mộ
không có ai cả.
Sự
can thiệp
của
một
sứ
giả
tương
đương
với
một
cách thức
thường
thấy
trong Thánh Kinh: đó là kiểu giải thích cho độc
giả
điều
mà các bà lẽ
ra phải
hiểu
trong đức
tin.
Trong Mc, có một thiên thần?
Dường
như
là không.
Áo trắng cũng
còn là y phục
của
những
người
“đã trải
qua một
cuộc
gian khổ
lớn
lao” (Kh
7,14), hoặc của nhừng
người
tín hữu
được
Đức
Ki tô cứu
độ.
Đó
là chiếc
áo trắng
dài của
những
người
được
rửa
tội.
Như
trong trường
hợp
của
người
thanh niên ở
ngôi mộ,
họ
có nhiệm
vụ
loan báo cho mọi
người
Đức
Ki tô phục
sinh (x.14,51).
Bên phải: là vị
trí ưu
tiên, danh dự
như
trong Lc 1,11.
Đức Giê su Na gia rét: chi tiết
chính xác nầy
nhằm
nhấn
mạnh
đến
căn
tính của
Đấng
mà họ
đang tìm: chính là Ngài!
Người
đã chỗi
dậy
rồi,
không còn đây nữa:
hai câu nầy
được
Mt đảo
ngược
ở
câu 28,6 hơi
có khuynh hướng
hộ
giáo. Ngược
lại
ở
đây, chỉ
đơn
thuần
xác nhận
không có xác Chúa Giê su. Còn về lời khẳng
định
nền
tảng
(“Người
đã trỗi
dậy”), không được
tách rời
khẳng
định
đi trước
(“Đấng
bị
đóng đinh”),
tạo thành lời
phát biểu
của
đức
tin được
lặp
lại
và khai triển
trong sách Cv
và tin mừng: Chúa Giê su, Đấng bị
đóng đinh đã sống
lại.
Mc muốn nói khẳng
định
rằng
Chúa Giê su: sau khi đã chết, Chúa Giê su không còn nằm
dưới
quyền
sự
chết
nữa:
Thiên Chúa đã đánh thức
Ngài khỏi
giấc
ngủ
của
sự
chết
và đã cho Ngài trỗi
dậy.
Nhưng sự
phục
sinh của
Chúa Giê su không được
quan niệm
đơn
thuần
như
một
sự
trở
lại
cuộc
sống
trần
gian, hay một
sự
sống
sót tản
mạn
và bất
định.
Nhưng
đây là một
sự
sống
mới,
vinh quang, vẫn
có những
đặc
tính thân thể
con người
nhưng
trong một
hình thái khác:
vẫn là một
con người
riêng biệt,
một
con người
hiện
diện
đầy
và hoạt
động
trước
người
khác.
Ông Phê rô: ở đây đặc
biệt
nhắc
tới
ông Phê rô là phù hợp
với
truyền
thống
cho rằng
Đấng
sống
lại
đã hiện
ra với
ông Si mon, đồng
thời
được
khẳng
định
trong lời
tuyên xưng
đức
tin cổ
nhất
ghi lại
trong thư
1 Cr 15,3-5 và ở
lời
kết
câu truyện
Em maus: Lc 24,34. Lần
nầy
khép lại
một
loạt
các lần
ông Phê rô được
nhắc
lại
trong suốt
tin mừng,
và nhấn
mạnh
rằng
việc
ông chối
Chúa không hề
có ảnh
hưởng
nào trong việc
ông được
Chúa Giê su chọn.
(x. Ga 21,15-19).
Ga li lê: đấng Phục
sinh triệu
tập
các môn đệ
của
Người
tại
chính nơi
mà Người
đã xuất
hiện
lần
đầu
tiên và đã kêu gọi
các ông đi theo Người.
Chính lúc nầy
đây, sự
kêu gọi
ban đầu
mang hết
ý nghĩa
của
nó. Việc
truyền
giảng
tin mừng
được
ngầm
nói đến
ở
đây, sẽ
được
phát biểu
một
các minh nhiên hơn
trong Mt 28,16-20 trong phần nối dài đoạn
Mt 4,14-15.
Như Người
đã nói với
các ông: x. Mc 14,28.
Không nói gì với ai: nếu
các bà nầy
đã không nói gì cả,
làm sao chúng ta có
thể biết
điều
đã xảy
ra? Do đó người
ta phải
nghĩ
rằng
đối
với
Mc sự
im lặng
nầy
không dứt
khoát.
SỨ ĐIỆP
Trong ngày chủ
nhật
Phục
sinh hôm nay cũng
như
trong suốt
mùa Phục
sinh, Halleluia là câu hát không ngừng được
mọi
người
tín hữu
hát vang trong các
bài thánh ca. Halleluia là từ híp pri có nghĩa
là ‘Hãy ca tụng
Thiên Chúa’, hãy tạ
ơn
Ngài.
Chắc
hẳn
còn có rất
nhiều
điều
trong cuộc
sống
ngăn
cản
chúng ta hòa chung khúc hát Halleluia với
mọi
người.
Đó
có thể
là những
ưu
tư
lo lắng
cho hiện
tại
hoặc
tương
lai, buồn
nản
thất
vọng
trước
bệnh
tật,
hay mất
mát người
thân. Cũng
có thể
là khủng
hoảng
kinh tế,
thất
nghiệp,
khiến
cho cuộc
sống
bấp
bênh. Và dù không gặp
phải
một
khó khăn
nào như
thế,
thì nhiều
lúc chúng ta cảm
thấy
mình không đủ
khả
năng
ngăn
chận
tất
cả
ngững
cái xấu
trên thế
gian, như
bạo
lực,
hận
thù, chiến
tranh, chia rẻ,
đói kém.
Trong
tình huống như
thế,
người
ki tô hát khúc Halleluia ca tụng Thiên Chúa đã thực
hiện
điều
kì diệu
nơi
Đức
Ki tô phục
sinh thì không phải
là để
trốn
chạy
thực
tế
hay tìm chỗ trú ẩn
an toàn trong tôn giáo. Đức
tin Ki tô giáo không phải
là trốn
chạy
cuộc
sống,
nhưng
là một
thái độ
sống
thực
tế
tuyệt
vời.
Nó đòi buộc
chúng ta phải
nhìn thẳng
vào hiện
tại
để
sáng suốt
hoạch
định
cho tương
lai. Nhưng
cái nhìn ấy
chúng ta
đặt trong một
viễn
tượng
mới
bởi
vì căn
bản
đức
tin của
chúng ta là chính Chúa Giê su phục sinh. Ngài hiện
diện
trong lòng cuộc
sống
của
chúng ta. Ngài sai chúng ta đi đến với
những
người
đã gặp
thử
thách và đau khổ,
và chờ
đợi
chúng ta hiện
diện
bên cạnh
như những chứng
nhân cho niềm
hi vọng
thúc đẩy
chúng ta.
Trong
suốt mùa Phục
sinh nầy,
chúng ta nghe đọc
lại
những
chứng
từ
tin
mừng nói về
sự
phục
sinh của
Chúa Giê su. Nếu
để
ý, chúng ta nhận
thấy
câu chuyện
được
kể
lại
bằng
nhiều
cách khác nhau đến
nỗi
ta không thể
làm một
bảng
tường
trình tổng
hợp
về
biến
cố
nầy.
Nhưng
dù khác biệt
nhau, nhưng
tất
cả
các trình thuật
đều
đồng
qui ở
một
điều
căn
bản:
những
giây phút đầu
tiên, những
người bạn
của
Chúa Giê su đã không tin Thầy
mình sống
lại.
Họ
hoảng
sợ, nghi ngờ
nói với
nhau: “Làm gì có chuyện
đó được!” Theo tin mừng
Gioan, chỉ
trử
có một
người
đã tin, đó là Gioan, còn tất
cả
các môn đệ
khác đều
mang chung tâm trạng
hoang mang sợ
hãi.
Còn
những người
phụ
nữ
đối
diện
trước
ngôi mộ
trống,
được
trao phó sứ
mạng
loan báo tin mừng
phục
sinh thì cũng
sợ
hãi chạy
về
nhà ẩn
nấp
sau những
cánh cửa
đóng kín. Trừ
Gioan ra, ai cũng
nghĩ
rằng
sở
dĩ
ngôi mồ
trống
là vì người
ta đã lấy
cắp
xác Chúa và đem đi nơi
khác. Thế
mà sau một
khoảng
thời
gian ngắn,
những
con người
ấy nhát đảm
ấy
đã được
biến
đổi
hoàn toàn. Từ
nghi ngờ
họ
đã tin tưởng,
từ
nỗi
hoang mang sợ
hãi họ
đã đi đến
niềm
xác tín không gì lay chuyển
được
trong suốt
cuộc
đời.
Điều
gì đã xảy
ra? Chủ
yếu
chính là một
kinh nghiệm
mà mỗi
người
đã trải
qua khi nhìn
thấy và gặp
gỡ
với
Chúa Giê su Phục
sinh. Người
đã sống
với
họ
trước
kia, đã bị
giết
chết,
thì nay đã sống
lại
và hiện
ra với
họ.
Họ
đã ăn
uống
với
Ngài. Họ
đã đụng
chạm
đến
Ngài, cả
cuộc
sống
của
họ
đã bị
Ngài chạm
đến.
Cũng
chính Đức
Ki tô phục
sinh đến gặp
chúng ta hôm nay để
củng
cố
đức
tin chúng ta. Ngài hiện
diện
trong bí tích Thánh Thể
để
qui tụ
chúng ta và cũng
muốn
ở
với
chúng ta qua những
niềm
vui nỗi
buồn
cuộc
sống,
qua những
hành vi chia sẻ
và liên đới,
qua công ăn
việc
làm cũng
như
giải
trí. Từ
nay, không còn điều
gì trong cuộc
sống
chúng ta lại
có thể
lạ
lẫm
đối
với
Ngài. Sống
như
những
người
sống
lại
là nói với
người
khác rằng
họ
cũng
có thể
chỗi
dậy,
cũng
có thể
đi đến
Ánh sáng, cũng
là con cái Thiên Chúa và Thiên Chúa cũng
muốn
họ
ở
gần
Ngài
mãi mãi.
Tin
mừng ngày hôm nay chính là: Thiên Chúa không ở
về
phía sự
dữ,
đau khổ
và sự
chết,
nhưng
đứng
về
phía sự
sống,
về
phía những
người
sống.
Nếu
chúng ta bị
bệnh
tật
hay đau khổ,
thì phải
tin chắc
rằng
chúng không đến
từ
Thiên Chúa. Một
vì Thiên
Chúa yêu thương chỉ
có thể
đứng
về
phía sự
sống.
Ngang qua sự
phục
sinh của
Chúa Giê su, các tông đồ
khám phá rằng
Thiên Chúa là đấng
mạnh
hơn
sự
chết.
Từ
đó, họ
xác tín rằng
nếu
Thiên Chúa mạnh
hơn
sự
chết,
nếu
Ngài có thể
phục
sinh Con của
Ngài, thì trong
cuộc chiến
chống
lại
các mãnh lực
sự
dữ,
chúng ta được
bảo
đảm
toàn thắng.
Trong
sự kiện phục
sinh, các môn đệ
tìm thấy
một
bảo
đảm
vững
chắc
cho cuộc
sống
của
họ.
Họ
sẵn
sàng đương
đầu
với
mọi
cuộc
đau khổ,
mọi
cuộc
tra tấn
hành hình, và chấp
nhận
ngay cả
cái chết
hơn
là chối
bỏ
đức
tin. Đối
với
họ,
chết
là vượt
qua một
sự
sống
khác
mà họ đã chạm
đến
trong con người
Chúa Giê su. Tất
cả
điều
đó hướng chúng ta đến
sự
sống
người
tín hữu.
Ki tô hữu
không phải
là người
chỉ
biết
tự
nhủ
với
mình rằng:
“Tôi tin có một
điều
gì đó trên cao”. Nhưng
là tin đấng
sống
lại;
điều
đó thay đổi
toàn
bộ cuộc sống
của
chúng ta. Từ
giây phút ấy,
chúng ta sống
trong một
thế
giới
đích thực.
Chúng ta không bao giờ
nhắm
mắt
trước
sự
dữ
của
thế
gian, nhưng
dám dấn
thân vào một
cuộc
chiến
như
chính Chúa Giê su đã làm. Hơn
nữa,
chúng ta sẽ
chiến
đấu
với
niềm
xác
tín rằng chúng ta là những
người
chiến
thắng.
Thế
giới
mới
đã bắt
đầu,
và Thánh Phao lô bảo
đảm
với
chúng ta: “Chúng ta là những
người
đã sống
lại
rồi”.
Lúc
bấy giờ,
chúng ta có lí do để
hát lên bài ca Halleluia. Bời
vì ở
trung tâm đức
tin của
chúng ta,
có niềm xác tín rằng
Chúa Giê su đã sống
lại.
Chúng ta sẽ
hát lên Halleluia bởi
vì cuộc
sống
chúng ta có một
ý nghĩa
khác và một
giá trị
rất
khác.
ĐÀO SÂU
1. HỎI: Công vụ
là sách gì?
THƯA: Sách Công vụ
là quyển
sách ghi chép lại
sự
hình thành Cộng
đoàn Ki tô
tiên khởi dưới sức
mạnh
của
Đức
Ki tô phục
sinh và của
Chúa Thánh Thần.
Tác giả
cho chúng ta biết
thế
hệ
đầu
tiên đã thực
hành Lời
Chúa và thihành sứ
mạng
làm chứng
như
thế
nào.
2. HỎI: Nội
dung bài đọc
một
như
thế
nào?
THƯA: Bài đọc
một
trích từ
sách Công vụ,
chương
10, kể
lại
một
biến
cố
quan trọng
trong việc
loan báo Tin mừng.ÔngPhê
rô được
Thiên Chúa sai xuống
Xê-da-rê đến
nhà Cor-nê-li-ô
và lần đầu tiên đã rao giảng
cho dân ngoại
biết
rằng
họ
cũng
là thành phần
trong chương
trình cứu
độ
của
Thiên Chúa.
3. HỎI: Trước
khi xuống
thành phố
Xê-da-rê, Phê
rô đã trải qua kinh nghiệm gì?
THƯA: Phê rô đã thực
hiện
hai phép lạ:
ở
Lốt,
ông đã chữa
lành ông Ê-nê
(Cv 9,32-35), và sau đó, ở Gia-phô ông đã phục
sinh một
người
phụ
nữa
tên là Ta-bi
tha (36-43).Hai phép lạ ấy chứng
tỏ
ông biết
rằng
Chúa phục
sinh đang ở
với
và hoạt
động
qua ông.
4. HỎI: Phê rô đã rao giảng
những
gì?
THƯA: Ông đã nêu ra những
điểm
chính yếu
tóm tắt
toàn bộ
tin mừng
cứu
độ:
Thiên Chúa sai Chúa Giê su đến trần gian loan báo tin mừng cứu
độ,
qua lời
rao giảng
Nước
Thiên Chúa và nhiều
phép lạ.
Nhưng
người
Do thái đã
không tin Ngài, nên đã tìm cách bắt, tra tấn
rồi
giết
chết
trên thập
giá. Nhưng
Thiên Chúa đã cho Ngài sống
lại
và hiện
ra với
một
số
nhân chứng,
rồi
sai họ
đi làm chứng
và rao giảng
về
Ngài. Bất
cứ
ai tin vào Ngài sẽ
được
tha tội
và được
sống
đời
đời.
5. HỎI: Điều
gì đã khiến
Phê rô mạnh
dạn
như
thế?
THƯA: Hai phép lạ
trên đã giúp cho Phê rô vượt
qua chặng
tiếp
theo: lần
nầy
phép lạ
xảy
ra trong chính bản
thân ông, vì đây là
lần đầu
tiên Phê rô vượt
qua mọi
rào cản
tôn giáo để
vào nhà một
người
ngoại
giáo loan báo Chúa Giê su là Đấng Cứu độ.
6. HỎI: Vậy
ai là người
đầu
tiên rao giảng
cho dân ngoại?
THƯA: Thường
người
ta dành tước
hiệu
“Tông đồ
dân ngoại”
cho thánh Phao lô để
tóm tắt
cuộc
đời
truyền
giáo ngoại
hạng
của
Ngài. Nhưng
qua câu chuyện
bài đọc
một,
thì Phê rô cũng
xứng
đáng được
gọi
là “Tông đồ
dân ngoại”
trước
cả
Phao lô.
7. HỎI: Diễn
từ
của
Phê rô mang lại
điều
gì mới?
THƯA: Điều
mới
được
nói đến
ở
câu cuối
cùng: “Bất
cứ
ai tin vào Người
thì sẽ
nhờ
danh Người
mà được
ơn
tha tội”
(Cv 10, 43).
Như thế,
tất
cả
mọi
người,
cả
những
người
ngoại
nếu
tin vào Chúa Giê su đều
được
tha tội,
được
chấp
nhận
vào Giao Ước
với
Thiên Chúa.
8. HỎI: Điều
gì đã làm cho các Tông đồ
có một
xác tín như
thế?
THƯA: Biến
cố
Chúa Giê su sống
lại
đã khơi
mào cho sự
suy tư
của
các Tông đồ.
Các ông đã đọc
lại
toàn bộ
Kinh Thánh để
cố
gắng
hiểu
dưới
ánh sáng Chúa Thánh Thần.
9. HỎI: Thánh Phê rô làm
nổi
bật
điều
gì trong bài diễn
từ?
THƯA: Thánh Phê rô nhấn
mạnh:
chính Thiên Chúa đã hành động nơi Chúa Giê su: Người
đã thánh hiến,
đã ở
với
Ngài, đã phục
sinh Ngài, đã cho Ngài hiện
ra với
các nhân chứng
mà Người
đả
chọn
từ
trước,
Thiên Chúa đã chọn
Ngài làm quan án những
kẻ
sống
kẻ
chết.
Và đặc
biệt câu tóm
tắt tất
cả
điều
trên: “Thiên Chúa đã xức
dầu
Thánh Thần
và ban cho Ngài đầy
sức
mạnh”.
10. HỎI: Ngữ
cảnh
Bài Tin mừng
(Mc 16,
1-8)như thế nào?
THƯA: Nếu
đoạn
Mc (16, 9-20)
là phần thêm vào, thì đoạn
tin mừng
của
chúng ta (Mc 16,
1-8) là đọan kết luận
của
Mc. Tin mừng
kết
thúc với
sứ
điệp
phục
sinh hoàn toàn vượt
ngoài sự
hiểu
biết
của
con người:
Đức
Giê su Na gia rét đã sống
lại.
11. HỎI: Các phụ
nữ
đến
mồ
Chúa Giê su là ai?
THƯA: Đó
là các bà đã quan sát cuộc
đóng đinh Chúa Giê su, và hai trong nhóm họ đã chứng
kiến
cuộc
táng xác người,
đã nhìn kỹ
chỗ
đặt
xác Người
(x. Mc 15,
47). Đó là những chứng
nhân cái chết
của
Chúa Giê su.
12. HỎI: Tại
sao Mác cô nói đến
việc
các bà đi mua hương
liệu?
THƯA: Các bà đi mua hương
liệu
là để
xức
xác Chúa Giê su,
một cử
chỉ
tỏ
lòng kính trọng
đối
với
người
chết.
Mác cô kể
lại
chi tiết
đó nhằm
nhấn
mạnh
rằng
các bà không bao giờ
nghĩ
rằng
Chúa Giê su có thể
sống
lại.
13. HỎI: Để
nhấn
mạnh
đến
thái độ
ngạc
nhiên của
các Bà trước
ngôi mộ
trống,
tác giả
đã vận
dụng
những
gì?
THƯA: Mác cô đã khéo léo đưa
vào câu hỏi
của
các Bà: “Ai
sẽ lăn
tảng
đá ra khỏi
cửa
mộ
giùm ta đây?”
Nhưng khi vừa
ngước
mắt
lên, họ
đã thấy
tảng
đá đã lăn
qua một
bên rồi.
Tảng
đá ấy
lớn
lắm.
Và tiếp
đến
việc
gặp
gỡ
các thiên thần
(cc. 5-6a) đã làm
cho các bà ngạc nhiên tột độ.
14. HỎI: Sự
hiện
diện
người
thanh niên có ý nghĩa
gì?
THƯA: Sự
hiện
diện
của
người
thanh niên mặc
áo trắng
khiến
các bà hoảng
sợ.
Ở
đây, Mác cô mô tả
một
khung cảnh
mạc
khải
của
Thiên Chúa theo kiểu
những
cuộc
thần
hiện
trong Kinh
Thánh.
15. HỎI: Các cuộc
thần
hiện
như
thế
xảy
ra như
thế
nào?
THƯA: Trước
tiên, người
của
Thiên Chúa trấn
an: “Đừng
hoảng
sợ!” Kế
đến
đưa
ra một
sứ
điệp mà Thiên Chúa muốn
gửi
đến:
“Đức
Giê su đã chổi
dậy
rồi”. Và sau cùng trao cho một
sứ
mạng: “Hãy về
báo cho các môn đệ
của
Ngài, đến
gặp
Ngài ở
Ga li lê, như
Ngài đã nói với
các ông”.
16. HỎI: Sự
kinh hoàng của
các bà có ý nghĩa
gì?
THƯA: Sự
kinh hoàng của
các bà có ý nghĩa
tôn giáo hơn
là tâm lí. Con người
thường
kinh hãi trước
sức
mạnh
và biểu
lộ quyền
năng
của
Thiên Chúa (Xh 15,
16; Đnl 2, 25; 11, 25). Các bà kinh hãi vì kinh nghiệm
thế
giới
thần
linh dang xâm chiếm
tâm hồn,
khiến
các bà không thể
mở
miệng
nói được
gì cả!
17. HỎI: Bài đọc
thứ
nhất
nói về
điều
gì?
THƯA: Bài đọc
thứ
nhất
trích từ
sách Công vụ,
là sách kể
lại
những
điều
kì diệu
Thiên Chúa đã thực
hiện
trong Giáo Hội.
Trong đoạn
nầy.
Bằng lời
đơn
sơ
dễ
hiểu,
nhưng
đầy
xác tín của
một
chứng
nhân, Thánh Phê rô đã tóm tắt cuộc đời
Chúa Giê su, từ
lúc rời
Na gia rét
khởi sự
rao giảng
cho đến
khi bị
giết
treo trên thập
giá rồi
sống
lại.
Sự
sống
lại
của
Ngài đã kéo theo hằng
loạt
những
biến
chuyển
lạ
lùng trong cuộc
sống
các môn đệ,
để
chuẩn
bị
sứ
mạng
làm chứng
cho Ngài.
18. HỎI: Trong khi Mác cô
viết:
“Sáng tinh sương,
lúc mặt
trời
hé mọc”
(Mc 16, 2),
còn Gioan thì lại cho biết: “Sáng sớm
ngày thứ
nhất
trong tuần,
lúc trời
còn đang tối”
(Ga 20, 1-9),
tại sao?
THUA: Tin mừng Gioan muốn
nhấn
mạnh
rằng:
Sự
Phục
sinh của
Chúa Giê su đã đẩy
lùi màn đêm tăm
tối
của
thế
gian. Ngay từ
đầu
tin mừng,
Gioan đã loan báo tìn mừng
ấy:
“Ánh sáng chiếu
soi trong bóng tối,
và bóng tối
đã không diệt
được
ánh sáng” (Ga 1,
5). Chiến thắng của
ánh sáng là dứt
khoát: “Can đảm
lên anh em, Thầy
đã thắng
thế
gian rồi”
(Ga 16, 33).
19. HỎI: Tin mừng Gioan viết:
“(Người
môn đệ
kia) đã thấy
và đã tin”, ông đã tin Chúa Giê su sống lại
chưa?
THƯA: Sau khi Phê rô vào thẳng
trong mộ,
thấy
những
băng
vải
liệm
xác và khăn
che đầu,
sau đó người
môn đệ
kia (chắc
là Gioan) cũng
đi vào, ông đã thấy
đúng như
Phê rô đã thấy,
và ông đã tin. Đối
với
Gioan, băng
vải
và khăn
che đầu
là bằng
chứng
khẳng
định
Chúa Giê su đã sống
lại.
Vì nếu
cho rằng
có người
đã lấy
xác Chúa Giê su đem đi nơi
khác, Gioan sẽ
trả
lời:
“Nếu
đã lấy
xác, thì sẽ
lấy
luôn cuộn
băng
liệm xác và khăn
che đầu!
Và nếu
Chúa Giê su vẫn
chết,
thì không ai lại
tháo cuộn
băng
liệm
và khăn
che đầu
ra!”
20. HỎI: Ngữ
cảnh
đoạn
tin mừng
(Ga 20, 1-10)
như thế
nào?
THƯA: Đoạn
tin mừng
là trình thuật
về
việc
Maria Mác đa la và các tông đồ khám phá ngôi mộ trống
(20, 1-10),
nằm trong phần
thứ
hai tin mừng
Gioan (18-21) nói về
giờ
của
Chúa Giê su.
21. HỎI: Ngoài Maria Mác
đa la, còn có người
nào khác không?
THƯA: Gioan chỉ
nói đến
một
mình Maria Mác đa la, trong khi Mát thêu nói đến hai người
phụ
nữ,
Mác cô ba
người, còn Luca cho biết
có ba phụ
nữ
và một
số
khác nữa
(Lc 24,10).Trong thực
tế,
có lẽ
ngoài Maria, còn nhiều
người
khác nữa
cùng đi với
bà (Ga 20,2: và
‘chúng tôi’..).
22. HỎI: Gioan muốn
diễn
tả
gì khi ghi chú: “khi trời
còn tối”?
THƯA: Gioan muốn nói rằng,
trong khi trời
còn tối
thì ánh sáng Phục
sinh đã chọc
thủng
màn đêm, giống
như
trong lời
tựa:
‘Ánh sáng chiếu
soi trong bóng tối,
và bóng tối
đã không diệt
được
ánh sáng’ (Ga 1, 5).
23. HỎI: Maria Mác đa la
đi ra mộ
Chúa Giê su để
làm gì?
THƯA: Gioan không nói rõ Ma ria
Mác đa la ra mộ Chúa Giê su để làm gì. Trong khi
đó, Mt cho biết
các bà ra đi để
chỉ
nhìn ngôi mộ,
còn Mc và Lc thì mang thuốc
thơm
để
tiếp
tục
làm cho xong công việc
tẩm
liệm
thi hài Chúa Giê su.
24. HỎI: Tại
sao Gioan gây ghi chú
đặc biệt
về
các tấm
khăn
liệm
xác Chúa Giê su?
THƯA: Vì các tấm
khăn
liệm
xác là bằng
chứng
cho thấy
rằng
từ
nay, Chúa Giê su đã được
giải
thoát khỏi
sự
chết.
Người
ta đã dùng hai tấm
khăn
để
liệm
xác Ngài, thì từ
nay chúng không còn được
sử
dụng
nữa,
vì Ngài đã sống
lại.
Gioan đã thấy
và đã tin Chúa đã sống
lại.
Khác với
ông La gia rô được
hồi
sinh bước
ra khỏi
mồ
nhưng
vẫn
còn quấn
trong những
khăn
liệm,
thân xác ông vẫn
còn bị
ràng buộc,
chưa
phải
là thân xác phục
sinh.
25. HỎI: Các tông đồ
có chờ
đợi Chúa Giê
su sống lại không?
THƯA: Không, các ông đã chứng
kiến
giây phút Chúa Giê su bị
bắt,
còn Gioan đứng
dưới
chân thập
giá khi Ngài hấp
hối
và tắt
thở.
Cái chết
của
Ngài chấm
dứt
mọi
hi vọng,
giấc
mơ
và cuộc
phiêu lưu
của
các ông. Vì thế,
việc
ngôi mộ
trống
thực
sự
làm cho các ông hết
sức
bất
ngờ.
26. HỎI: Có câu nào trong
Kinh Thánh Cựu
Ước
tiên báo Đấng
Messia sẽ
sống
lại
không?
THƯA: Không có câu nào trong
Kinh thánh nói trước Đấng Messia sẽ
sống
lại.
Nhưng
dưới
ánh sáng phục
sinh và sự
hướng
dẫn
của
Chúa Thánh Thần,
các tông đồ
đọc
lại
toàn bộ
chương
trình của
Thiên Chúa và đã nhận
ra điều
ấy.
Chính nhờ
tin mà các ngài mới
hiểu
được.
27. HỎI: Ngôi mộ
trống
có phải
là lý chứng
cho sự
sống
lại
không?
THƯA: Ngôi mộ
trống
không phải
là lý chứng
cho việc
Chúa Giê su sống
lại,
nhưng
chỉ
là khởi
đầu
cho một
niềm
tin vào sự
sống
lại,
và sau đó được
kiểm
chứng
qua việc
Chúa Giê su hiện
ra với
các môn đệ.
Còn đối
với
chúng ta, chúng ta không có chứng cứ nào khác ngoài lời
chứng
của
các tông đồ
và Giáo hội.
Thêm vào đó
là các hậu quả của
việc
Chúa Giê su sống
lại
nơi
tác động
của
Chúa Thánh Thần
biến
đối
đời
sống
con người.
Thánh Phao lô là một
ví dụ
điển
hình.