Trang Chủ > Suy Niệm > Thường Niên 13-25 > Tuần 13

LỄ THÁNH PHÊ RÔ PHAO LÔ (29/6)

pherro-phaolo.jpgiO agN 10x350.pngÂn sủng của Thiên Chúa thật tuyệt vời, có thể biến đổi những con người yếu đuối mỏng dòn thành những sứ giả của Chúa Kitô. Chúng ta có hai chứng từ lừng lẫy hôm nay khi kính nhớ hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, vì từ một tên bách hại không ngừng các Kitô hữu và một con người nhiệt tình nhưng yếu đuối Thiên Chúa đã biến thành hai trụ cột vững chắc của Tin mừng. Cả hai đã cùng thực hiện một chứng từ bằng cuộc từ đạo của họ ở Rôma. Giáo Hội công nhận các Ngài là người tiên phong xây dựng nền móng đức tin Giáo Hội.

Sách Công vụ 12,1-11

Mặc cho sự chống đối của người đời, sứ mạng mà Chúa Giê su ủy thác cho các tông độ vẫn tiếp tục. Việc Phê rô được giải thoát một cách mầu nhiệm, đêm Xuất hành từ Ai Cập và Phục Sinh cho thấy sự năng động của Chúa Thánh Thần biểu hiện trong thế giới.

Thánh Vịnh 33

Bài thánh ca tạ ơn và đặt trọn niềm tin cậy nơi Thiên Chúa. Dù bị người đời chống đối, Người vẫn tiếp tục công trình sự thật công chínhlề luật của Người. Chính trong Người mà tín hữu tìm thấy sức mạnh.  

Thư 2 Tm 4, 6-8.17-19

Vào cuối đời, Thánh Phaolô viết cho người phụ tá giúp đỡ Ngài trong nhiều chuyến truyền giáo nguy hiểm. Ngài đã suy tư về ý nghĩa của cuộc sống. Ngài biết Ngài đã hoàn thành sứ mệnh được giao phó. Ngài cảm nhận bị người đời từ bỏ nhưng khẳng định niềm tin vào Thiên Chúa sẽ cứu độ Ngài sau khi chết.

Tin mừng: Mt 16: 13-19

NGỮ CẢNH

Với đoạn nầy chúng ta đi vào phần trung tâm Tin mừng Mt. Lần đầu tiên Chúa Giê su hỏi ý kiến các môn đệ về bản thân Ngài (16,13-20) ; và cũng là lần đầu tiên Chúa Giê su loan báo cuộc thương khó Ngài sẽ phải chịu (16,21-23). Từ đây Chúa Giê su lìa bỏ miền Galilê để lên đường đi về Giêrusalem, và dành thời giờ chuẩn bị cho các môn đệ đón nhận cuộc Khổ nạn của Ngài (16,24-28).

Có thể đọc bản văn theo bố cục sau đây:

1. Câu hỏi về chân tính Chúa Giê su và lời tuyên tín của Phê rô (16,13-16)

2. Tuyên bố về tư cách Phê rô (16,18-19)

TÌM HIỂU

Các ông thưa: ‘Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy giả, kẻ thì bảo là ông Êlia: Câu trả lời của các môn đệ cho thấy có nhiều ý kiến khác nhau về Chúa Giê su, nhưng tất cả đều không tách rời lịch sử Israel: các câu trả lời cho thấy họ đều tin rằng Ngài rất có thể là một sứ giả của Thiên Chúa đến để hoàn tất những lần can thiệp của Người trong lịch sử

Thầy là ai: Chúa Giê su hỏi ý kiến các môn đệ về sứ mạng lịch sử của Ngài đối với Thiên Chúa và dân Ngài, điều mà câu trả lời của Phêrô sẽ khẳng định. Điều Ngài sẽ thực hiện ở trần gian để phục vụ Thiên Chúa và nhân loại sẽ cho biết Ngài là ai.

Con Thiên Chúa hằng sống: Chỉ có Mt mới thêm chi tiết nầy vào câu trả lời của Phêrô và đã khiến cho người ta có nhiều ý kiến về nó. Một số người xem đây là lời tuyên xưng thần tính của Chúa Giê su: Chúa Giê su chính là Thiên Chúa. Một số khác thì nghĩ rằng kiểu nói ấy chỉ có nghĩa: “Ngài là đấng Messia” mà thôi. Mỗi ý kiến đều có đủ lý chứng hỗ trợ. Có lẽ lúc đầu kiểu nói ấy chỉ thuần tuý có ý nghĩa thiên sai (= đấng Messia); nhưng sau đó được đọc lại dưới ánh sáng phục sinh và mặc lấy đầy đủ ý nghĩa thần tính.

Không phải phàm nhân: dịch sát là “thịt và máu”. Đây là kiểu nói Hip pri để chỉ các yếu tố tiêu biểu hình thành con người.

Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thành của Thầy: Cách chơi chữ nầy cho thấy tính sáng tạo của Chúa Giê su. Trước Ngài, chúng ta không hề gặp một thí dụ tương tự nào như thế cả. Trong tiếng Aram, Kêphas là tảng đá. Biệt danh nầy sẽ mãi mãi gắn liền với Simon như tên riêng của ông. Cộng đoàn tiên khởi biết đến ông dưới cái tên Kêphas (1Cr 1,12; 15,5; Gl 1,18; 2,9; 2,11.14). Đổi tên như thế là chuyện thường tình trong CƯ cho thấy mối liên hệ mới mẻ giữa người đổi tên và người được đổi tên, đồng thời còn mặc thêm một ý nghĩa mới nữa (Stk 17,5.15; 33,10; Ds 13,16; 2V 23,34; 24,17). Ở đây ý nghĩa thật rõ ràng: đức tin mà ông Simon vừa tuyên xưng sẽ là tảng đá nền móng, tảng đá bền vững trên đó Chúa Giê su sẽ xây Hội Thánh của Ngài. Thực ra, chính Chúa Giê su là nền móng vô hình của Giáo hội (1 Cr 3,10-11; 1Pr 2,6-8; Ep 2,20), nhưng chính Phêrô sẽ là nền móng hữu hình sau khi Ngài ra đi. Ta ‘sẽ xây’ qui chiếu đến tương lai sẽ đến sau cái chết và Phục sinh của Chúa Giê su.

Và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi: Qua câu nầy, hình như Chúa Giê su muốn nói đến quyền lực của âm phủ, tức là nơi tạm trú của những người chết chờ ngày sống lại sau hết, chứ không phải là hỏa ngục. Quyền lực ấy sẽ không thể kềm giữ những người sẽ thuộc về cộng đoàn thiên sai trong cõi chết (Is 38,10; G 38,17; Tv 14; Kn 16,13). Nếu Chúa Giê su đã muốn cho Giáo hội trường tồn, thì chắc chắn Ngài cũng muốn cho những gì mà Ngài ban cho Phêrô cũng được trường tồn. Do đó sự kế nhiệm vai trò ông Phêrô là điều hợp lý.

Chìa khoá Nước Trời: Is 22,22 nhắc lại lời Thiên Chúa nói là Ngài sẽ đặt chìa khóa trên vai Engiakim để ban cho ông quyền mở và đóng cửa vào hoàng cung, tức quyền cho phép hoặc ngăn cản nhà vua ra vào. Trong Kh 3,7, chính Chúa Giê su tự giới thiệu như là Đấng nắm chìa khóa nhà Đa vít. Chìa khóa ở đây ám chỉ đến thẩm quyền trong Do thái giáo nhằm giải thích lề luật, ở đây chỉ thẩm quyền trên lời tuyên xưng Chúa Giê su là Con Thiên Chúa.

Cầm buộc tháo cởi: là quyền quyết định một hành vi hay thái độ có được Lề luật cho phép hay cấm đoán. Thẩm quyền của Phêrô có liên quan đến giáo huấn của Chúa Giê su.

SỨ ĐIỆP

Hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô chúng ta kỷ niệm hôm nay đã rao giảng Tin Mừng của Chúa Kitô cho thế giới của người Do Thái và thế giới ngoại giáo. Hai đấng hoàn toàn khác nhau; Phê rô là một ngư dân ở Biển Hồ Tibêria. Ngài không được học hành bao nhiêu. Còn Phao lô được sinh ra trong một gia đình thương gia giàu có, đã được đào tạo và giáo dục trong đạo Do Thái để thành một giáo sĩ Do Thái. Phê rô đã được kêu gọi khi đang làm việc trên thuyền. Còn Phao lô đã bị “Chúa Kitô chiếm đoạt” khi đang nỗ lực ruồng bắt ki tô hữu. Cả hai người đôi khi xung khắc mãnh liệt nhưng được cùng một niềm đam mê, cùng một tình yêu của Chúa Kitô kết hợp.

Bải đọc một cho chúng ta biết những gì đã xảy ra trong những năm sau cái chết của Chúa Giêsu. Các tông đồ mạnh dạn loan báo Tin Mừng. Một cộng đoàn Kitô hữu được hình thành và lớn dần. Lúc đầu, nó không làm cho nhà chức trách để ý. Nhưng nhiều trường hợp chữa lành lạ lùng đã khiến tình hình xấu đi. Gia cô bê bị hành hình và Phê rô đang bị giam trong tù. Giống như Chúa Giêsu, cộng đồng trẻ đang phải đối mặt với cuộc đàn áp của chính quyền dân sự và tôn giáo. Chúng ta đã thấy Phê rô được giải thoát một cách kỳ diệu như thế nào. Nhưng điều quan trọng nhất và không phải là khía cạnh lạ lùng của sự kiện này. Điều mà Thánh Luca muốn nhấn mạnh lại quan trọng hơn nhiều: nếu các tông đồ đã được giải thoát, đó là vì thế giới cần họ.

Điều này vẫn còn đúng là ngày hôm nay: Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa giải phóng. Chúng ta thường có xu hướng sống thu mình để cuối cùng rơi trở lại chính mình: vì thế, Chúa giải thoát chúng ta khỏi nỗi sợ hãi của chúng ta và giúp chúng ta ra khỏi sự cô lập để có thể tiếp cận với những người khác, đặc biệt là những người đang bị thử thách bởi đau khổ, bệnh tật và cô đơn.
Trong bài đọc thứ hai, Phao lô
để lại cho chúng ta chứng từ của ngài. Khi viết thư nầy, ngài biết mình sắp về với Chúa nên đã làm bảng tóm kết. Ngài so sánh cuộc đời mình và của các tông đồ khác như một cuộc đua đường dài. Ngài thấy mình đã chạy tới đích và hy vọng phần thưởng Chúa hứa cho người tôi tớ trung thành. Thành quả ấy không đến từ chính Thánh Phaolô. Nhưng Thiên Chúa đã cho ngài sức mạnh để kiên trì cho đến khi kết thúc. Nếu không có sự hiện diện và hành động của Chúa Kitô, Phao lô không bao giờ có thể đạt được điều mình đang có.

Cũng chính Chúa tiếp tục hiện diện và hoạt động trong cuộc sống của chúng ta mỗi ngày. Chúng ta có thể trích dẫn nhiều lời chứng. Như Mẹ Tê rê xa, một nữ tu người đã dành cả cuộc đời mình để phục vụ những người nghèo khổ và bất hạnh nhất ở thành phố Cal cút ta. Và còn vô số chứng từ khác. Thông qua lời chứng này và nhiều lời khác, Chúa vẫn tiếp tục hiện diện và đồng hành với Hội Thánh. Ngài đặt trên con đường những người mà chúng ta cần đến để giúp chúng ta phát triển.

Tin Mừng mời gọi chúng ta đi một bước xa hơn: Chúa Giêsu đặt cho Phêrô và các môn đệ một câu hỏi căn bản: “Anh em nói Thầy là ai?”. Và chúng ta nghe lời đáp trả tuyệt vời từ Phê rô:Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Chính trên đức tin của Thánh Phêrô Chúa Giêsu xây dựng Hội Thánh của Người: “Anh là Phê rô và trên tảng đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy. Chính nhờ đức tin Phêrô và Phaolô xây dựng Giáo Hội. Nếu họ có thể làm những gì họ đã làm ấy là vì họ được nâng đỡ và soi sáng bởi tình yêu của Chúa Kitô. Người ta thật khó tin nếu không yêu mến.

Như đối với hai Thánh Phêrô và Phaolô, Chúa trông chờ vào đức tin của chúng ta. Chính trên đức tin của mọi Kitô hữu mà Ngài muốn tiếp tục xây dựng Hội Thánh của Ngài. Để hiểu rõ hơn những gì Ngài mong đợi nơi chúng ta, chúng ta hãy lấy một thí dụ. Khi xây dựng một ngôi nhà, thợ xây thường sử dụng tảng đá lớn. Nhưng đôi khi họ cần một tảng đá nhỏ hơn để chèn cho chắc. Tất cả điều ấy để nói rằng trong cộng đồng Kitô hữu, Chúa đang cần đến mỗi người và tất cả mọi người, già trẻ, bệnh tật hay khỏe mạnh. Không ai có quyền nói: " tuổi của tôi, tôi không còn phục vụ được điều gì nữa. "Không ai được phép cảm thấy mình vô dụng.

Như đã làm nơi Thánh Phêrô và Phaolô và nhiều người khác, Chúa tiếp tục kêu gọi những hạng người rất khác nhau và thường xung khắc với nhau đến độ không thể làm việc chung với nhau được. Một số được gọi làm linh mục, phó tế, tu sĩ nam nữ; những người khác đang tham gia vào các phong trào Công Giáo Tiến Hành, những người phục vụ như các giáo lý viên, các hướng dẫn viên phụng vụ, các người thăm viếng  bệnh nhân, hoặc đơn giản là chứng nhân của Tin Mừng trong môi trường sống của mình. Đó là chưa kể đến biết bao người đang âm thầm phục vụ. Chính qua các hành vi dấn thântiếp nhận cũng như với những người rất khác nhau mà Giáo Hội được xây dựng.

Hôm nay, câu hỏi được đặt ra cho chúng ta là chúng ta sống trong Giáo Hội như thế nào. Chúng ta không thể bằng lòng sống như những người tiêu dùng chỉ biết đòi Hội Thánh phục vụ mình. Những gì Chúa kỳ vọng nơi chúng ta, đó là một cuộc dấn thân toàn vẹn cuộc sống của chúng ta. Ngài chờ đợi lời chứng bằng lời nói và hành động của chúng ta. Điều làm nên giá trị cho cuộc sống là tình yêu dành cho tất cả những người chung quanh chúng ta mỗi ngày trong cuộc sống. Ước gì lời chuyển cầu của hai Thánh Phêrô và Phaolô giúp chúng ta hướng tới sự hiệp thông lớn hơn của đức tin và cộng tác! Đức ái thuyết phục nhất chính là tình yêu nối kết các tông đồ.

ĐÀO SÂU

1. HỎI: Bối cảnh lịch sử bài đọc một?

THƯA: Sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, Hội Thánh sơ khai bắt đầu xuất hiện. Phê rô đã bị lãnh đạo Do thái giáo bắt bỏ tù hai lần. Lần sau được Thiên thần Chúa giải thoát (Cv 5, 17-20). Ít lâu sau, cuộc bách hại lại bùng phát dữ dội. Tê pha nô bị ném đá. Các môn đệ bị ruồng bắt nên phải rời Giê ru sa lem đi lánh nạn khắp nơi. Riêng Phê rô, Gia cô bê và Gioan còn ở lại Thành Thánh. Vua Hê rô đê hạ lệnh giết Gia cô bê và bắt Phê rô bỏ tù. Nhưng một lần nữa Thiên Chúa ra tay giải thoát ông.

2. HỎI: Nội dung bài đọc một?

THƯA: Phê rô bị Vua Hê rô đê bắt giam trong tù nhưng Thiên Chúa đã ra tay giải thoát ông ra khỏi ngục một cách kì diệu.  

3. HỎI: Phê rô bị bắt vào lúc nào?

THƯA: Phê rô bị bắt trong tuần lễ Vượt Qua của người Do Thái

4. HỎI: Ý nghĩa cuộc giải thoát ấy như thế nào?

THƯA: Thiên Chúa giải thoát các tông đồ là vì sứ mạng truyền giáo, vì thế gian cần đến các ngài. Trong sứ mạng ấy, Thiên Chúa không bỏ rơi các ngài. Người không để cho quyền thế trần gian gây cản trở cho việc loan báo Lời ban sự sống.   

5. HỎI: Có những chi tiết nào giống nhau trong cuộc Phục sinh của Chúa Giê su và cuộc giải thoát Phê rô?

THƯA: Có. Khung cảnh của hai biến cố giống nhau: xảy ra vào ban đêm, trong tù, có lính canh, Phê rô đang ngủ giống như Chúa Giê su đang an giấc trong mồ. Ánh sáng vụt lên trong đêm tối cho thấy chính Thiên Chúa hành động giải thoát.  

6. HỎI: Tại sao đoạn tin mừng tạo khúc quanh mới trong cuộc đời Chúa Giê su?

THƯA: Chính vì sau đoạn tin mừng nầy, thánh Mát thêu viết: “Kể từ lúc ấy, Chúa Giê su bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Ngài phải lên Giê ru sa lem chịu nhiều đau khổ bởi các Kì mục, Thượng tế và Kinh sư gây ra”(Mt 16, 21).

7. HỎI: Tước hiệu ‘Con Người’ có nghĩa gì?

THƯA: Tước hiệu ‘Con Người’ bắt nguồn từ đoạn sấm ngôn tiên tri Đa ni ên 7, 13-14. Khi áp dụng cho mình tước hiệu ‘Con Người’ Chúa Giê su muốn tự mạc khải như là Đấng lãnh đạo Dân Thiên Chúa.

8. HỎI: Tước hiệu ‘Con Thiên Chúa’ có nghĩa gì?

THƯA: Vào lúc bấy giờ, tước hiệu ‘Con Thiên Chúa’ đồng nghĩa với tước hiệu ‘Đấng Cứu độ là Vua’. Về sau, Hội Thánh được Chúa Thánh Thần soi sáng và dạy dỗ, đã tin rằng Chúa Giê su chính là Con Một của Thiên Chúa.

9. HỎI: Điểm mới trong lời tuyên xưng của Phê rô là gì?

THƯA: Điểm mới nằm trong việc lời tuyên xưng Phê rô nối kết hai tước hiệu lại làm một. Chúa Giê su là Thiên Chúa mạc khải như lả tình yêu phó mình trong tay người đời.

10. HỎI: Vừa sau khi Phê rô tuyên xưng đức tin Chúa Giê su đã làm gì?

THƯA: Ngài đã trao cho ông sứ mạng làm tảng đá nền móng xây dựng Hội Thánh của Ngài.

11.HỎI: Đâu là nền tảng của Giáo Hội Chúa Ki tô?

THƯA: Chính Chúa Giê su là Tảng đá trên đó Giáo hội được xây dựng, vì chính Ngài qui tụ, xây dựng và điều khiển Giáo hội.

12.HỎI: Vậy tại sao Chúa Giê su lại gọi Phê rô là đá tảng trên đó Giáo Hội được xây dựng?

THƯA: Giáo Hội chỉ có một nền tảng là Chúa Ki tô. Còn Phê rô được gọi là tảng đá trên đó các yếu tố khác biệt của Giáo hội được qui tụ và hoà hợp với nhau. Hơn nữa ông còn được quyền cầm buộc. Trong Giáo hội trần thế đang trên đường tiến về Nước Trời, chẳng phải tất cả đều tinh sạch và hoàn hảo cả đâu. Phêrô sẽ thi hành nhiệm vụ phân biệt trong đó. Chính ông sẽ có khả năng phê phán xem các phần tử của Giáo hội có sống phù hợp với chương trình của Chúa Ki tô không. Sứ mạng được uỷ thác cho Phêrô là như thế.

13.HỎI: Giáo Hội có cần thiết để gặp gỡ Đức Ki tô không?

THƯA: Vì chính Đức Ki tô đã thiết lập Giáo Hội, nên muốn đến với Đức Ki tô, PHẢI QUA GIÁO HỘI. Không ai có thể đi đến Đức Ky tô mà không ngang qua Giáo hội, một xã hội vừa nhân loại, vừa siêu nhiên. Không ai có thể một mình và trực tiếp tìm gặp Chúa Ki tô mà chẳng cần đến Giáo hội. Vì như thế là tự xây dựng một Chúa Ki tô theo khuôn mẫu của mình, là tưởng tượng ra một vì Chúa theo sở thích của mình, là từ chối chấp nhận Chúa Giê su như Ngài đã tự mạc khải cho ta.

14.HỎI: Vậy Giáo Hội là ơn cứu độ cho lòai người sao?

THƯA: Đúng vậy. Giáo hội là ơn cứu độ cho lòai người: Dù khuôn mặt nhân loại của Giáo hội đôi lần có thể làm ta tức giận hay trở nên chướng kì, thì Giáo hội vẫn luôn là người duy nhất nắm giữ những lời hằng sống, sử dụng năng lực sáng tạo của các bí tích và mở được cửa Nước Trời. Và ngay cả những người vô tín, vốn từ chối Giáo hội hay lương dân không biết đến Giáo hội, cũng vẫn nhận được trong tâm hồn ơn sống phù hợp với tiếng nói lương tâm của họ nhờ sự trung gian không ngừng của Mẹ Giáo hội.

15.HỎI: Sức mạnh của Giáo hội đến từ đâu?

THƯA: Đến từ Thiên Chúa, như lời hứa của Đức Ki tô: “Quyền cửa âm phủ không thể thắng nổi”. Thật vậy, Giáo hội là thực tại nhỏ bé nhất, nghèo nàn nhất, ít được chú ý nhất, ít hùng mạnh nhất so với các thực tại khác dưới bầu trưòi, vì Giáo hội được qui tụ chung quanh một máng cỏ và một cây thập giá. Nhưng Giáo hội cũng là một thực tại cao quí nhất, phong phú nhất, vinh quang nhất và hùng mạnh hơn hết trong mọi thực tại dưới bầu trời nầy, vì Hài nhi sinh ra trong máng cỏ, Con người bị đóng đinh trên thập giá đã phục sinh và đang hiển trị.

16.HỎI: Ai là thù địch của Giáo Hội?

THƯA: Thưa thù địch của Giáo Hội là quyền lực của sự chết. “Quyền lực sự chết sẽ không thắng được Giáo hội của Ta!”. Lời khẳng định ấy của Chúa Giê su tỏ ra mong manh biết mấy trước tất cả những xấu xa mà kẻ thủ ma quỉ đã gieo vào lòng Giáo Hội! Sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta xem ra bất lực trước tất cả mãnh lực của sự chết không ngừng áp bức Giáo Hội. Trong trần gian, vóc dáng Giáo hội nhỏ xíu gần như vô nghĩa, bị xâu xé và tan nát bởi biết bao nhiêu mâu thuẩn nội bộ, bao nhiêu phản chứng, bị làm khó dễ bởi bao nhiêu lời trách cứ, bao nhiêu hăm doạ từ bên ngoài!

17.HỎI: Bổn phận của người tín hữu là gì?

THƯA:  PHẢI LÀM CHỨNG: Phải dẹp bỏ nỗi sợ hãi và biết rằng lòng can đảm luôn luôn đòi hỏi sự kính trọng và lòng tin tưởng. Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta là những nhà truyền giáo và Chúa giao cho chúng ta một vùng ảnh hưởng mà Ngài sẽ đòi hỏi chúng ta phải trả lẽ, vì một ngày nào đó Chúa đã đến để gặp chúng ta, để qua chúng ta gặp những người khác.

 


Các bài viết mới hơn
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Bảy Tuần XIII Thường Niên_Nt. M. Anh Thư, OP
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Bảy Tuần XIII Thường Niên_Lm Antôn Maria Vũ Quốc Thịnh
     Suy niệm Thứ Sáu Tuần XIII Thường Niên_Tân Quang
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Năm Tuần XIII Thường Niên_Lm. Giuse Nguyễn Duy Khang
     Suy niệm Lời Chúa Lễ Thánh Phêrô và Phaolô_Lm. Đan Vinh - HSTM
     Suy Niệm Lời Chúa Lễ Thánh Phêrô Và Phaolô_Nt. Maria Trần Thị Thu Trang, OP
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Ba Tuần XIII Thường Niên_Nt. Têrêsa Nguyễn Thị Kim Tuyến, OP
     Suy niệm Lời Chúa Thứ Hai Tuần XIII Thường Niên_Lm Giuse Phạm Hoàng Vũ
     Suy niệm Lời Chúa Chúa Nhật Tuần XIII Thường Niên_Lm Giuse Đỗ Đức Trí
     Suy niệm Lời Chúa Chúa Nhật Tuần XIII Thường Niên_Lm Đan Vinh - HSTM

Các bài viết cũ hơn
     Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Tuần XIII Thường Niên năm A. Nhiều tác giả
     Bài Đọc Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô, Tông đồ
     Thứ Bảy tuần XIII thường niên: THÓI ĐẠO ĐỨC PHÂN BÌ GHEN TỴ. Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
     Suy Niệm Tin Mừng Thứ Sáu tuần XIII Thường Niên C: TIẾNG GỌI ÂN TÌNH. Nt. Anna Têrêxa Thiên Hoàng.
     Suy Niệm Tin Mừng Thứ NămTuần XIII Thường Niên Năm C: Đức Ki-tô phục vụ cho sự sống của con người: Chữa bệnh và tha tội. Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, SJ
     Suy Niệm Tin Mừng Thứ Tư Tuần XIII Thường Niên Năm C. Nhiều tác giả
     Suy Niệm Tin Mừng Thứ Ba Tuần XIII Thường Niên C: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN. Nt. Maria Anh Thư, OP
     Suy Niệm Tin Mừng Thứ Hai Tuần XIII Thường Niên C: Sau những khởi đầu tốt đẹp. Nt. Minh Thùy
     Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật XIII Thường Niên C: TIN VÀ BƯỚC THEO CHÚA GIÊSU. Lm. Giuse. Đỗ Đức Trí
     Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật XIII Thường Niên C: Lm. Phaolô Nguyễn Văn Đông