CHÚA NHẬT 2
PHỤC SINH ABC – KÍNH LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
Cv 5,12-16 ; Kh
1,9-11a.12-13.17-19 ; Ga 20,19-31
TRUYỀN
ĐẠT ĐỨC TIN TRONG THẾ GIỚI HÔM NAY
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 20,19-31
(19) Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi
các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái.
Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” (20)
Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng
vì được thấy Chúa. (21) người lại nói với các ông: “Bình an cho anh
em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. (22) Nói xong,
Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.
(23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ tội
ai, thì người ấy bị cầm giữ”. (24) Một người trong Nhóm Mười Hai, tên
là Tôma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giêsu đến.
(25) Các môn đệ khác nói với ông: “chúng tôi đã được thấy Chúa!” Ông
Tôma đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người. Nếu tôi không xỏ
ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi
chẳng có tin”. (26) Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt
trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín.
Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em”. (27)
Rồi Người bảo Ông Tôma: “Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay
Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa,
nhưng hãy tin”. (28) Ông Tôma thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên
Chúa của con!” (29) Đức Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc
thay những người không thấy mà tin!” (30) Đức Giêsu đã làm nhiều dấu
lạ khác nữa trước mặt các môn đệ. Nhưng những dấu lạ đó không được
ghi chép trong sách này. (31) Còn những điều đã được chép ở đây là
để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô Con Thiên Chúa, và để anh em
tin mà được sự sống nhờ Danh Người.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin mừng thuật lại hai lần Đức Giêsu
Phục Sinh hiện ra với các môn đệ để củng cố niềm tin của các ông như
sau: Lần thứ nhất (c 19-25): vào buổi chiều sau khi sống lại, Chúa
Phục Sinh đã hiện đến đứng giữa các môn đệ đang hội họp mà không có
Tôma. Người cho các ông xem các vết thương nơi bàn tay và cạnh sườn để
chứng minh Người đã sống lại sau cuộc tử nạn, rồi thổi hơi ban Thánh
Thần và trao quyền tha tội cho các ông. Lần thứ hai (c 24-29): Tám ngày
sau, Chúa Giêsu lại hiện ra với các môn đệ và có Tôma. Người đặc biệt
đáp ứng các đòi hỏi của ông. Rồi khi ông đã đạt đến đức tin, thì
Người dạy: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không
thấy mà tin!”.
3. CHÚ THÍCH:
- C 19-20: + Ngày thứ nhất trong tuần: Ngày
nay, Giáo Hội đã chọn Ngày Thứ Nhất trong tuần để mừng mầu nhiệm
Chúa Phục Sinh và gọi là Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. Đây là ngày
lễ nghỉ, thay thế cho Thứ Bảy (Sa-bát) của Do Thái Giáo. + Đức Giêsu
đến: Người hiện đến trong lúc phòng đang đóng kín. Điều này cho thấy
thân xác của Người sau phục sinh có đặc tính thiêng liêng siêu việt,
có khả năng hiện diện khắp nơi. + Bình an cho anh em! Các môn đệ vui
mừng vì được thấy Chúa: Đức Kitô Phục Sinh đem lại sự bình an (x. Ga
20,19.21) và niềm vui (x Ga 20,20) cho các môn đệ (x Ga 14,27). + Người
cho các ông xem tay và cạnh sườn: Qua đó, Người chứng tỏ Người chính
là Đấng đã từng bị đóng đinh thập giá trước đó (x. Ga 19,18), và bị
lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn (x. Ga 19,34). Như vậy có sự liên kết mật
thiết giữa hai mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh.
- C 21-23 + Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì
Thầy cũng sai anh em: Tông đồ nghĩa là “được sai đi”. Sứ mạng này
xuất phát từ Chúa Cha truyền cho Đức Giêsu, và giờ đây đến lượt Đức
Giêsu Phục Sinh lại truyền cho các môn đệ và tất cả mọi tín hữu. + Người
thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”: Theo
Kinh Thánh, hơi thở chính là sự sống. Như xưa, Thiên Chúa đã thổi sinh
khí vào con người A-đam và ban sự sống cho ông (x. St 2,7), thì nay,
Đức Giêsu Phục Sinh cũng thổi Thần Khí cho các môn đệ. Rồi đến lượt
các môn đệ lại sẽ ban sự sống thiêng liêng ấy cho các tín hữu qua
các bí tích. + “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em
cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”: Đức Giêsu được Gioan Tẩy Giả
giới thiệu là Con Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian (Ga
1,29). Khi chữa lành một người bại liệt, Đức Giêsu đã tuyên bố có
quyền tha tội (x. Mt 9,6). Trong Tin Mừng hôm nay, Người còn thiết lập
bí tích giải tội, để ban quyền tha tội cho các tông đồ bằng việc
thông ban Thánh Thần cho các ông. Từ đây các giám mục kế vị các tông
đồ sẽ tiếp tục thông ban quyền tha tội cho các linh mục là những
cộng sự viên của các ngài.
- C 24-25: + Một người trong Nhóm Mười Hai tên
là Tôma, cũng gọi là Đi-đy-mô: Tôma là một trong Mười Hai Tông đồ (x.
Mt 10,3). Biệt danh là “Sinh Đôi”. Tính tình bộc trực và can đảm (x. Ga
11,16). Ông ưa nêu ra thắc mắc khi Đức Giêsu giảng để được Người dạy
cho hiểu rõ hơn (x.Ga 14,5). + Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người...:
Tôma đòi được “mắt thấy tay sờ”, nghĩa là đòi một đức tin khả giác
giống như một nhà khoa học thực nghiệm (x. Ga 20,25). + “... thì tôi
chẳng có tin”: Nhiều môn đệ khác cũng cứng tin như thế. Tin Mừng Nhất
Lãm đã nói tới sự cứng tin của các ông như sau: “Nhưng có mấy ông
vẫn hoài nghi” (Mt 28,17); “Người khiển trách các ông không tin và cứng
lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau
khi Người trỗi dậy” (Mc 16,14) ; hoặc Chúa phán: “Sao anh em lại hoảng
hốt ? Sao còn ngờ vực trong lòng ?” (Lc 24,38)
- C 26-27: + “Đặt ngón tay vào đây, và hãy
nhìn xem tay Thầy”. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy: Đức
Giêsu đã thoả mãn những đòi hỏi của Tôma. + Đừng cứng lòng nữa,
nhưng hãy tin: Tuy khiển trách tội cứng lòng của Tôma, nhưng Đức Giêsu
cũng thông cảm và chỉ mời gọi ông hãy bỏ đi sự cứng lòng để tin
vào mầu nhiệm Phục Sinh của Người.
- C 28-29: + Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa
của con !”: Tôma là môn đệ cuối cùng tin Đức Giêsu sống lại, nhưng
lại là người đầu tiên tuyên xưng nội dung đức tin đầy đủ nhất về Đức
Giêsu: Người vừa là Chúa (Đấng Mêsia), vừa là Con Thiên Chúa (x Mt
16,16). + Phúc thay những người không thấy mà tin”: Qua câu này, Chúa
Giêsu muốn nói rằng: Từ nay trở đi, đức tin vào mầu nhiệm Phục Sinh
sẽ không được dựa trên kinh nghiệm khả giác về các lần hiện ra nữa,
nhưng sẽ dựa trên lời chứng của các tông đồ (x. Ga 19,35). Sau này các
ông còn sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho đức tin vào mầu nhiệm
Phục Sinh này nữa.
4. HỎI ĐÁP:
HỎI 1) Thân
xác Chúa Giêsu sau phục sinh có phải là thân xác đã chịu khổ nạn
trước đó không?
ĐÁP:
Thân xác Chúa Giêsu sau khi phục sinh cũng
chính là thân xác đã từng trải qua cuộc khổ nạn. Trong Tin mừng hôm
nay Chúa Giêsu đã chứng minh mầu nhiệm Phục Sinh gắn liền với cuộc
Tử Nạn trước đó bằng cách: “Cho các
môn đệ xem các vết thương ở hai bàn tay và cạnh sườn Người” (c.20).
Cho sờ vào Người (x. Lc 24,36-40), và Người còn ăn một khúc cá nướng
trước mặt các ông (x. Lc 24,41-43) để chứng minh Người thực đang sống
chứ không phải chỉ là hồn ma.
Tuy nhiên thân xác Chúa Giêsu sau khi phục sinh
lại có những đặc tính khác thường như: Đi xuyên qua tường mà vào nhà
Tiệc ly đang khi các cửa đều đóng kín vì sợ người Do thái (x. Ga
20,19). Khuôn mặt của Người sau phục sinh biến đổi khác trước khiến
bà Maria gặp Người mà lầm tưởng là người làm vườn (x. Ga 20.14-15), khiến
hai môn đệ làng Emmau không nhận ra Người trong suốt chặng đường dài
Người đồng hành và giải thích Kinh thánh cho họ (x. Lc 24,16). Thân xác Người
có đặc tính siêu việt: Dù không có mặt tại chỗ mà vẫn nghe được
những đòi hỏi của Tôma (x. Ga 20,25).
HỎI 2) Hai
lần hiện ra của Chúa Giêsu Phục Sinh với các môn đệ cách nhau một tuần giống và
khác nhau thế nào ?
ĐÁP:
-Về thời điểm: Cả hai lần Chúa Phục Sinh hiện
ra với cộng đòan môn đệ tại nhà Tiệc Ly đều vào buổi chiều Ngày thứ Nhất
trong tuần cách nhau một tuần lễ tức 8 ngày. Từ đây Ngày thứ Nhất trở
thành Ngày của Chúa (Chúa Nhật) thay thế cho Ngày Hưu Lễ (Sabát) của đạo
Do thái.
-Về sĩ số môn đệ hiện diện: Lần thứ nhất sĩ số các
môn đệ hiện diện là 10 vị do thiếu Tôma và lần thứ hai sĩ số đủ 11 vị.
-Về lời chào đầu tiên: Trong cả hai lần Chúa Phục
Sinh đều chào các môn đệ bằng cùng một công thức: “Bình an cho anh
em !”.
HỎI 3) Trong
lần hiện ra thứ hai với các Tông đồ và có Tôma ở đó. Chúa Giêsu đã
ra lệnh cho Tôma sờ vào các vết thương ở tay và cạnh sườn Người. Vậy
Tôma có làm như vậy không?
Đáp:
Tôma tượng trưng cho những người cứng tin, chỉ
tin Chúa sống lại dựa vào cảm nghiệm và sự xét đoán theo lương tri
của mình, chứ không dựa trên lời nói của người khác kể lại. Nhưng trong
lần này, sau khi được gặp Chúa Phục Sinh và được nghe Người ra lệnh xỏ
ngón tay vào lỗ đinh ở bàn tay, thọc bàn tay vào vết thương ở cạnh
sườn Thầy đúng như đòi hỏi trước đó của mình, thì ông đã đạt tới đức
tin trọn vẹn, biểu lộ qua lời tuyên xưng: “Lạy Chúa của con. Lạy Thiên
Chúa của con!”. Tin mừng không đề cập đến việc ông có sờ vào các vết
thương ở tay chân và cạnh sườn của Thầy như ông đã yêu cầu trước đó hay
không (c. 27-28).
HỎI
4) Đức tin của ông Tôma giá trị thế nào đối với đức tin của các tín hữu
sau này ?
ĐÁP:
Chúa Giêsu nói với Tôma và qua ông, Người
muốn nhắn nhủ các tín hữu sau này: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin.
Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29). Thực vậy: có
những mầu nhiệm về Thiên Chúa, mà người phàm tuy không thể thấy hay
không cảm nghiệm được nhưng vẫn phải tin qua các chứng nhân đức tin. Vì đức
Tin là điều kiện để được vào Nước Trời của Chúa Giêsu: "Ai tin và chịu
phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin sẽ bị kết án" (Mc 16,16).
Nên
biết rằng cũng nhờ tuyên xưng đức tin, mà Tông đồ Phêrô đã được Chúa
Giêsu đặt làm đá tảng đức tin của Hội thánh, được trao quyền cầm
buộc và tháo cởi (x. Mt 16,18-19), được quyền chăn chiên (x. Ga 21,15-17)
và quyền củng cố đức tin cho các anh em (x. Lc 22,23). Các Tông đồ
cũng được Chúa Giêsu trao quyền giáo huấn về đức tin: “Ai nghe anh em
là nghe Thầy. Ai khước từ anh em là khước từ Thầy. Mà ai khước từ
Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy” (Mt 10,40; Lc 10,16).
Tóm lại: Việc Tông đồ Tôma
cứng tin lại thêm sự bảo đảm cho lòng tin của chúng ta hôm nay. Vì niềm tin vào
mầu nhiệm Chúa sống lại của chúng ta không chỉ dựa trên những lời rao giảng mà
thôi, nhưng trên đức tin của những chứng nhân có đầu óc sáng suốt và thực tế,
đã nhìn thấy tận mắt và đã sờ tận tay mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu. Do
đó, thánh Grêgôriô đã nói: ”Chính ngón tay đa nghi của Tôma đã trở nên ông thầy
của toàn thế giới; bàn tay đa nghi của Tôma đã dạy cho mọi người một sự thật
cách chắc chắn, đó là Đức Giêsu đã phục sinh”.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI
CHÚA: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì
thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21).
2. CÂU CHUYỆN: VỀ MỘT PHƯƠNG THẾ TRUYỀN GIÁO HỮU HIỆU
Ngày nay rao giảng về mầu
nhiệm Chúa Phục Sinh cho người khác có thể chấp nhận không phải dễ. Ngòai việc
cần ơn trợ giúp của Chúa, còn cần phải có chứng tích yêu thương cụ thể của
người rao giảng. Câu chuyện sau đây là một bằng chứng:
Một vị linh mục ở nước Bờradin (Brasin) đã
thuật lại kinh nghiệm truyền giáo của mình như sau: “Mỗi ngày, khi đi
ngang qua một con đường ở Riô đờ Danêrô (Rio de Janeiro), tôi đều thấy
một thanh niên ngồi dựa lưng vào tường và chìa chiếc nón ra xin tiền
khách qua đường. Anh ta không đi lại được vì đôi chân bị què. Sau đó vì
qua lại nhiều lần trên con đường này, nên tôi không còn để ý đến chàng
thanh niên hành khất bị què kia.
Rồi một hôm, khi tôi đang đứng nói chuyện
với một người quen ở một bên đường, thì thấy có nhiều người đi bộ
ngang qua chỗ anh què ăn xin mà như không nhìn thấy anh và không chia sẻ
tiền bạc gì để giúp đỡ anh. Tôi liền nghĩ đến thái độ làm lơ của
thầy Tư tế và thầy Lêvi trong dụ ngôn người Samari nhân hậu. Hai ông
này đã tránh sang một bên đường mà đi và chỉ có người Samari ngoại
giáo đã tỏ lòng thương xót nạn nhân bằng hành động cụ thể (x. Lc
10,30-35). Tôi quyết định noi gương người Samari nên đã vui vẻ tiến lại
gần bắt chuyện: “Này anh bạn, anh có thể đứng dậy được không? Anh có
muốn đi đứng giống như mọi người không? ...”Lúc đầu, anh ta đưa cặp mắt
mệt mỏi nhìn tôi dò xét, và khi đọc được sự thành thật trên gương
mặt của tôi, anh đã trả lời: “Tôi luôn hy vọng sẽ có ngày cuộc đời
của tôi tốt hơn và tôi được thoát khỏi cái nghề ăn xin nhục nhã hiện
nay. Dĩ nhiên là tôi mơ ước một ngày nào đó tôi có thể tự mình đi
đứng được như bao người khác. Nhưng làm sao kiếm ra tiền để lắp một
đôi chân giả và mua được một cặp nạng đây?” Sau khi nghe anh tâm sự, tôi
đã síết chặt tay anh và nói: “Tôi xin hứa là trong một ngày gần đây,
giấc mơ của anh sẽ trở thành hiện thực”.
Trong bài giảng Thánh lễ Chúa Nhật mùa Chay
hôm ấy, tôi đã kể về số phận đáng thương của người ăn xin này cùng
với ước mơ nhỏ bé của anh. Rồi tôi đề nghị cộng đoàn cùng nhau làm
một cuộc lạc quyên tại chỗ để giúp đỡ anh ta như một cách ăn chay
tinh thần. Số tiền lạc quyên thu được hôm ấy đã gần đủ chi phí làm
đôi chân giả và cặp nạng gỗ mà người ăn xin cần sử dụng. Tuần sau,
khi tôi và hai đại diện cộng đoàn đến gặp và cho biết kết quả thì
chàng thanh niên kia rất vui mừng. Ngay lúc đó, anh được chở đến bệnh
viện chấn thương chỉnh hình để được ráp một đôi chân giả, và tập đi
với đôi nạng mới.
Trong lễ Phục Sinh năm ấy, tôi mời anh đến
nhà thờ dự lễ và dành cho anh chỗ ngồi đặc biệt cạnh bàn thờ chính.
Trong bài giảng, tôi đã đề cập đến trường hợp của anh như sau: “Hôm
nay chúng ta mừng ngày Chúa Giêsu trỗi dậy từ trong cõi chết, bước
vào một cuộc sống mới. Người kêu gọi chúng ta mở rộng lòng giúp đỡ
những anh chị em đang lâm cảnh nghèo khổ để họ có một cuộc sống tốt
đẹp hơn. Hôm nay, nhờ sự quảng đại của cộng đòan mà anh bạn của
chúng ta đây đã nhận được một cuộc sống mới”. Nói đến đây tôi mời
anh què đứng dậy để giới thiệu anh với cộng đoàn. Sau đó mọi người
trong nhà thờ đều phấn khởi khi nghe những lời phát biểu chân thành
của anh, và vỗ tay tán thưởng khi nghe anh ngỏ ý xin gia nhập cộng
đoàn. Cuối cùng anh què đã được xếp vào đội hình những người lên
dâng lễ hôm đó.
3. THẢO
LUẬN: 1) Bạn
đánh giá thế nào về phương cách truyền giáo của vị linh mục người
Bờradin trong câu chuyện trên? 2) Qua bí tích thêm sức, bạn đã được
Chúa Phục Sinh thổi hơi thông ban Thánh Thần và được trao sứ vụ“làm
chứng nhân” cho Chúa. Vậy bạn sẽ làm gì trong những ngày này để giúp một
người lương tin nhận Chúa và phó thác vào tình thương của Người ?
4. SUY NIỆM:
1) Dễ tin
và cứng tin: Trong đời sống hằng ngày, ngòai việc nhận biết nhờ tai nghe
hay mắt thấy, chúng ta còn phải tin vào lời dạy của thầy cô thì mới có thể
thăng tiến về học tập và kiến thức, phải tin vào cha mẹ mới có thể nên người
được, phải tin vào lời nói của các đối tác làm ăn mới có thể kinh doanh thành công
được... Tuy nhiên thực tế cũng có nhiều người đã bị lừa vì dễ tin lời nói ngon
ngọt. Vậy về việc tin vào lời nói của người khác chỉ thực sự tốt đẹp nếu người
nói là người đáng tin hoặc có bằng chứng đáng tin, điều họ nói hợp lý và người
nghe phần nào cảm nghiệm được về điều ấy.
Riêng về mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giêsu, các
môn đệ không phải là những người dễ tin: Dù các ông đã được nghe Đức Giêsu ba
lần tiên báo về cuộc khổ nạn và phục sinh của Người, nhưng các ông vẫn không
muốn chấp nhận (x Mt 16,21-23). Rồi sau cuộc tử nạn của Chúa, khi bà Maria
Mácđala báo tin Thầy Giêsu vẫn còn sống và chính bà đã được nhìn thấy Người,
nhưng các ông vẫn không tin (x Mc 16,9-11). Vào chiều ngày Thứ Nhất trong tuần,
khi Chúa Giêsu Phục Sinh hiện đến trong phòng cửa vẫn đóng kín thì các môn đệ
lại sợ hãi như nhìn thấy ma. Chúa Giêsu đã trấn an và chứng minh Người không
phải là ma như sau: “Sao anh em lại hỏang hốt ? Sao anh em ngờ vực trong lòng ?
Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt
như anh em thấy Thầy có đây” (Lc 24,38-40). Sau đó thấy các ông vẫn chưa tin,
Người đã ăn một mẩu cá nướng trước mặt các ông (x Lc 24,41-43).
2) Đức tin của Tôma và của các tín hữu chúng ta: Tuy
Tôma là người cứng tin, nhưng sau khi đã được gặp gỡ Chúa và đã cảm nghiệm về
sự phục sinh của Người, ông đã đạt tới một đức tin sâu xa và vững mạnh nhất,
thể hiện qua lời tuyên xưng đức tin của ông : “Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa
của con !” (Ga 20,28). Chúa Giêsu cũng qua ông Tôma chúc phúc cho các tín hữu
sẽ tin theo Người sau này như sau: “Vì đã trông thấy Thầy, nên con tin. Phúc
thay người không thấy mà tin”. Ngày nay tuy không ai trong chúng ta được gặp
Chúa Phục Sinh, không trực tiếp nghe lời nói của Người, cũng không được ăn uống
tiếp xúc với Người như các Tông đồ xưa, nhưng đức tin của chúng ta sẽ có phúc
nếu chúng ta tin vào lời rao giảng của các Tông đồ là những chứng nhân đức tin,
là những người không dễ tin nhưng đã từng cảm nghiệm về mầu nhiệm phục sinh như
ông Tôma trong Tin Mừng hôm nay. Do đó, cùng với thánh Grêgôriô chúng ta có thể
nói: “Ngón tay đa nghi của Tôma đã trở nên ông thầy của toàn thế giới ; bàn tay
đa nghi của Tôma đã dạy cho mọi người một sự thật chắc chắn, đó là thân xác Đức
Giêsu Kitô thực sự đã sống lại”.
3) Sứ vụ cứu độ của Hội Thánh hôm nay là gì ?
: Đức Giêsu Phục Sinh cũng trao sứ mạng “xóa bỏ tội lỗi và ban
ơn tha tội” cho Hội thánh như sau: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh
em tha tội ai thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy
bị cầm giữ” (Ga 20,23). Việc tha tội này được thực hiện bằng việc
rao giảng Tin mừng và ban bí tích rửa tội cho những ai có lòng tin
(x. Mt 28,19-20), và ơn tha tội qua bí tích giải tội. Quyền tha tội
này chính là quyền “cầm buộc và tháo cởi” đã được Đức Giêsu trao
cho Tông đồ Phêrô (x. Mt 16,19) và trao chung cho Nhóm Mười Hai (x. Mt
18,18).
4) Truyền đạt Đức Tin cho con người ngày nay bằng
cách nào?: Trước khi về trời, Chúa Phục Sinh đã trao cho Hội Thánh sứ vụ loan
báo Tin Mừng cho muôn dân (x Mt 28,19-20). Sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho con
người ngày nay không dễ chút nào. Muốn thuyết phục người ngày nay tin vào Chúa
Giêsu, tin vào lời Người rao giảng thì cần những điều kiện như sau:
- Một là phải đón nhận ơn Thánh Thần: Ta hãy noi
gương các tông đồ xưa sau khi Chúa lên trời đã cầu nguyện kết hiệp với Đức
Maria và các anh em Chúa, với các môn đệ và đã nhận được ơn Thánh Thần vào lễ
Ngũ Tuần. Chỉ khi được Thánh Thần tác động, việc tông đồ truyền giáo mới đạt
được thành công: Sau bài giảng đầu tiên của tông đồ Phêrô đã có ba ngàn người
xin theo đạọ (x. Cv 2,41). Thực đúng như lời Đức Giêsu đã tâm sự với các môn đệ
trong bữa tiệc ly: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và
Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy,
anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
- Hai là hiệp nhất với Chúa qua các mục tử trong
Hội Thánh: Khi kết hiệp với Chúa Giêsu qua việc vâng phục các vị chủ chăn trong
Hội Thánh, công việc tông đồ của chúng ta mới mang lại kết quả tốt đẹp nhờ ơn
Chúa trợ giúp, như ông Simon đã thưa với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng tôi đã
vất vả suốt đêm, mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả
lưới”. Các ông đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách
cả lưới (Lc 5,6). Thánh Phaolô cũng dạy việc loan báo Tin Mừng cần phải liên
kết với các vị mục tử trong Hội Thánh qua việc sai đi như sau: “Làm sao họ kêu
cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe,
nếu không có ai rao giảng? Làm sao rao giảng, nếu không được sai đi?” (Rm 10,14-15).
- Ba là phải rao giảng bằng lối sống chứng nhân
tình thương: Thế giới ngày nay đầy rẫy những kẻ hoài nghi và không tin tưởng.
Cách thức duy nhất làm cho họ được ơn biến đổi lòng tin là họ có thể “nhìn thấy”
Đức Giêsu và “đụng chạm“ vào Người qua lối sống nhân bản vị tha của các tín
hữu, qua lời nói thân thiện lễ độ và lối ứng xử khiêm tốn phục vụ như những
chứng nhân của Chúa theo lời Đức Thánh Cha Phaolô VI: “Người đương thời sẵn
sàng nghe các chứng nhân hơn là thầy dậy, hoặc nếu họ có nghe thầy dậy, thì bởi
vì chính các thầy dậy cũng là những chứng nhân”.
- Hôm nay cũng là lễ kính trọng thể “Lòng Chúa Thương
xót”: Vào ngày 30/4/2000 Đức Gioan Phaolô II đã tuyên thánh cho Nữ tu Faustina
Kowalska và chọn Chúa Nhật II Phục Sinh hằng năm làm ngày kính Lòng Chúa Thương
Xót. Ảnh Lòng Chúa thương xót do thánh nữ Faustina Kowalska đã thị kiến và
thuật lại như sau : “Người mặc y phục trắng, bàn tay phải ban phép lành, bàn
tay trái vén mép áo ngực, từ đó thoát ra các tia sáng xám và đỏ, tượng trưng bí
tích Thánh Thể và bí tích Rửa Tội. Đức Giêsu là hiện thân Lòng Thương Xót của
Thiên Chúa Cha. Chúng ta hãy cùng với thánh nữ Faustina Kowalska thưa với Người
rằng: “Lạy Chúa Giêsu, con xin tín thác vào Người!” Chúng ta hãy trở thành hiện
thân của Lòng Chúa thương xót qua lối sống hiệp nhất, chia sẻ tình thương cụ
thể cho nhau và nâng đỡ nhau, sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm cho nhau”.
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY
CHÚA GIÊSU. Tông đồ Tôma tuy lúc đầu cứng lòng tin, nhưng sau đó đã
đạt đến một đức tin trọn hảo khi gặp gỡ Chúa Phục Sinh. Chính sự
“cứng lòng” của Tôma lại trở thành chỗ dựa vững chắc cho đức tin
của mỗi người chúng con hôm nay. Rồi các tông đồ cũng đã trung thực và
khiêm tốn, không chỉ thuật lại những điều tốt lành, mà cả những thiếu
sót, chậm tin và hồ nghi của các ngài để đức tin của chúng con hôm nay
được vững mạnh. Giờ đây cùng với Tôma xưa, chúng con long trọng tuyên
xưng: “Lạy Chúa Giêsu. Chúa chính là Đấng Cứu Thế và là Thiên Chúa của chúng
con. Xin thương xót chúng con”.
- LẠY THIÊN CHÚA LÀ CHA
GIÀU LÒNG TỪ BI THƯƠNG XÓT. Xin cho chúng con được ngụp lặn trong đại dương của
Lòng Chúa Thương Xót, được tắm gội trong Máu và Nước đã tuôn ra từ Thánh Tâm
Con yêu dấu của Cha là Chúa Giêsu. Vì cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giêsu
Kitô, xin thương xót chúng con và toàn thế giới. Xin hai Thánh: Faustina và
Gioan Phaolô II cầu bầu cùng Chúa cho chúng con hôm nay và mãi mãi.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM