CHỦ NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN
Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, và cứu
chuộc chúng ta. Điều đó quá quen thuộc đến nỗi nhiều khi chúng ta quên tạ ơn
Ngài, tưởng rằng đó là điều đương nhiên. Tạ ơn Thiên Chúa là nhận rằng tất cả
là hồng ân, rằng chúng ta không đáng được như thế, nhưng lòng Tốt của Người là
vô giới hạn. Tạ ơn hoàn tất tạo thành. Thánh Thể là đỉnh cao của hành vi tạ ơn
đích thực.
Sách
2 Vua 5, 14-17
Theo luật Is ra en, viên tướng Si ria nầy,
là một người ngoại giáo, bị ô uế đến hai lần: phung cùi và ngoại đạo. Nhưng
trong tình yêu Thiên Chúa, đó là một bệnh nhân cần phải được cứu chữa, một người
cần được an ủi. Đối với người ki tô hữu, tất cả mọi người đang cần được cứu
giúp là một lời mời gọi của Thiên Chúa.
Thánh
vịnh 97
Những điều kì diệu Thiên Chúa Is ra el
thực hiện được hòan thành trước mặt muôn dân. Trong Giao ước mới, các dân không
chỉ là chứng nhân, mà còn là những người thừa hưởng cả những điều kì diệu của
Thiên Chúa.
Thư
2 Tm 2,8-13
Trong suốt sứ vụ của mình, Phao lô vấp
phải những chống đối: lương dân, người do thái, và cả các người Ki tô hữu gốc
do thái nữa qua tinh thần nệ luật và nghi thức. Tuy nhiên, Phao lô được Thánh
Thần thúc đẩy hướng đến thế giới Hi lạp, đã khám phá ra rằng Lời Thiên Chúa
không thể bị xiềng xích. Được thấm nhuần ân sủng, nên ngài có thể đương đầu với
mọi chướng ngại để truyền rao Tin mừng Tình yêu của một vì Thiên Chúa mời gọi tất
cả mọi người đến Vinh quang.
Tin
mừng Lc 17,11-19
NGỮ
CẢNH
Câu 7,11 nhắc lại sợi chỉ đỏ xuyên suốt
trong phần nầy của tin mừng khởi đầu từ câu 9,51: Chúa Giê su đang trên đường đến
Giê ru sa lem, nơi Ngài sẽ chịu chết (x. 13,22).
Dọc cuộc hành trình của Chúa Giê su từ
Ga li lê lên Giê ru sa lem, Luca không quan tâm đến lộ trình địa lí. Ngài đặt
câu truyện Matta và Maria ngay tại Bê ta nia, cửa ngõ vào Giê ru sa lem
(10,38-42) trước khi Chúa Giê su vượt qua vùng Sa ma ria. Điều Lu ca muốn nhấn
mạnh là ý nghĩa và mục tiêu cuộc hành trình nầy.
Phép lạ chữa lành chỉ lướt qua
(17,12-15), để trình thuật tập trung vào người phung cùi Sa ma ri là người duy nhất nhận ra ý nghĩa của việc được
chữa lành và nhờ vào lòng tin, đã thực sự được chữa lành (17,16-19). Chỉ có Lu
ca kể lại câu truyện nầy.
TÌM
HIỂU
Làng kia: x. 5,12 nói đến những người
phong hủi đi vào một thị trấn nơi Chúa Giê su đang đi qua.
Những người phong hủi: họ làm thành một
nhóm gồm những người Do thái và Sa ma ri: bệnh của họ không những khiến họ
không còn xa cách và đối địch nữa mà còn giúp họ giao hảo với nhau.
Đằng xa: những người phong hủi đứng ở
đàng xa để không lây truyền bệnh của họ và gây ra ô uế theo như lề luật buộc
(Lv 13,45-46).
Lạy Thầy Giê su: chứ không lạy Chúa như
ở 5,12. đầy là lần duy nhất tước hiệu chỉ uy quyền của một người đứng đầu được
gán cho Chúa Giê su bởi một người không thuộc vào nhóm môn đệ của Ngài (x.
5,5).
Xin dủ lòng thương: họ không xin được
thanh sạch như người phong hủi ở đoạn 5,12, mà xin được thương xót bởi lòng
nhân hậu của Chúa Giê su (x. 18,38). Họ hướng về Chúa Giê su như người Do thái
hướng về Thiên Chúa trong lời kinh hằng ngày của họ (Tv 51,3).
Hãy đi trình diện: lệnh truyền của Chúa
Giê su có một chút gì bất ngờ: Ngài không làm bất cứ một cử chỉ nào (khác với
5,13), cũng không hứa hẹn điều gì cả, mà chỉ bảo họ đến với các thầy tư tế, dường
như Ngài coi họ đã được chữa khỏi. Quả thật các thầy tư tế có bổn phận phải chứng
thực rằng tình trạng ô uế đã khỏi (Lc 14,2-3). Họ đã vâng lời, và như thế họ đã
cho thấy có một lòng tín thác mạnh mẽ nhất.
Tôn vinh Thiên Chúa: cũng như các mục tử
(2,20), người bại liệt (5,25), người đàn bà còng lưng (13,13), người mù
(18,43), viên bách quan (23,47). Ở đây, Lu ca đặt thái độ tôn vinh Thiên Chúa
trong tương quan với tư thế phủ phục trước mặt Chúa Giê su của người phong hủi
đã được chữa lành để tạ ơn Ngài. Người ngọai quốc nầy đã biết nhận ra hành động
của Thiên Chúa. Ở đây đức tin của anh được bày tỏ theo theo hướng sẽ được Chúa
Giê su chấp nhận. Nơi tạ ơn không còn là đền thờ Giê ru sa lem nữa, mà là con
ngừơi của Chúa Giê su.
Người Sa ma ri: x. 10,33. Lu ca nhấn mạnh
đến nguồn gốc của người biết ơn nầy: những người mau mắn tiếp nhận Chúa Giê su
là những người ở xa hơn đối với thế giới Do thái (x. Ga 4, và Cv 8).
Chín người kia đâu: mười người được chữa
khỏi nhưng chỉ có một người duy nhất ca tụng Thiên Chúa. Chúa Giê su không
trách chín người kia về sự vô ơn của họ, như một vị chữa bệnh có thể làm; Ngài
chỉ than phiền rằng họ không biết nhận ra nơi Ngài là đấng cứu độ của họ. Chúa
Giê su không nói lên ý nghĩ nầy cho người
Sa ma ri, nhưng cho tất cả các môn đệ là những người vẫn chưa có một niềm tin
đích thật (17,6). Thái độ của người Sa ma ri là một bằng chứng thúc đẩy họ tin.
Người ta tin rằng câu hỏi của Chúa Giê su cho thấy Ngài quan tâm muốn qui tụ tất
cả bạn bè của Ngài vào trong Giáo Hội.
Đứng dậy về đi!: Chúa Giê su đỡ người
Sa ma ri đang còn phủ phục đứng dậy, bởi vì nếu lòng tin mời gọi con người tôn
thờ, thì cũng giúp người ấy chỗi dậy để phục vụ.
Lòng tin: Chúa Giê su cũng nói câu nầy
với những người đã được hưởng phép lạ khác (7,9; 8,48.50;18,42) cũng như đối với
người phụ nữ phạm tội (7,50). Thật vậy, việc tạ ơn là một cách diễn tả đức tin,
là một sự nhận biết Thiên Chúa như Ngài là: đấng cứu độ cho không.
Đã cứu chữa anh: người phung hủi không
chỉ được chữa lành hoặc được thanh sạch, mà còn được liên kết với Chúa Giê su,
đấng Cứu độ, do đó trở thành một tạo vật mới nhờ Ngài.
Vậy, Chúa Giê su đặt niềm tin ở trên lề
luật. Lộ trình không kết thúc khi người ta đến với các định chế Do thái; sau
khi đi đến với các tư tế, cần phải nhận ra Chúa Giê su là Đấng Cứu độ. Khi tạ
ơn Chúa Giê su, người ta gặp Thiên Chúa nơi Ngài và đến với ơn cứu độ.
SỨ
ĐIỆP
Tuy cách nhau một vài thế kỉ, sách Các
Vua và Tin mừng đều nói với chúng ta về người phung cùi. Sách Các Vua nói về
viên tướng Naaman người Siria, còn Tin mừng thì kể cho chúng ta nghe tình cảnh
đáng buồn của mười người kiều dân của Israên. Bệnh của họ biến họ trở thành những
người ô uế, bị mọi người xa lánh, bị gạt ra bên lề xã hội.
Người ta phải tránh xa họ để khỏi bị
nhiểm uế, còn họ thì đi đâu cũng phải lắc chuông để cảnh báo cho người khác biết
sự hiện diện của mình, và lẩn tránh họ. Hơn nữa căn bệnh khủng khiếp ấy còn bị
coi là biểu tượng và hậu quả của tội lỗi, đánh mất hình ảnh của Thiên Chúa
trong họ.
Tình cảnh những người khốn khổ ấy giúp
chúng ta suy nghĩ về bản thân và cuộc đời trong một xã hội đang bị hoành hành bởi
một chứng bệnh phung cùi đáng sợ hơn nhiều. Thực vậy, xã hội ngày nay lôi kéo
chúng ta sống và suy nghĩ theo tất cả mọi người. Những điều thiết yếu thường được
nói đến là tiền, chức vị, danh vọng. Và để đạt được những thứ đó, người ta chấp
nhận làm mọi điều, kể cả những gì sai trái. Áp lực xã hội là một điều khủng khiếp
vì nó thúc đẩy chúng ta suy nghĩ và hành động giống như mọi người. Vì thế điều
quan trọng hôm nay là chúng ta hãy để cho tin mừng mời gọi chúng ta.
Các bài đọc Thánh Kinh hôm nay loan báo
cho chúng ta một tin mừng: Thiên Chúa có thể chữa trị những người phung cùi,
như trường hợp của ông Naaman người Syri
trong bài đọc thứ nhất. Và đó cũng là trường hợp của mười người đến tìm gặp Đức
Ki tô. Nhưng điều quan trọng hơn hết không phải là phép lạ. Chúa Giê su không
bao giờ phô trương quyền năng làm phép lạ của mình. Trái lại, đối với Ngài, đức
tin là yếu tố quyết định mang lại phúc lành cho người bệnh: “Đức tin của con đã
chữa lành con”.
Phép lạ chỉ là bước đầu mời gọi đức
tin, và con người tự do tiếp nhận hay từ chối dấu chỉ mà Thiên Chúa ban cho.
Như trong trường hợp mười người phung cùi được Chúa cứu, sự chữa lành đó không
phải là ơn cứu độ đích thực, nhưng chỉ là một dấu chỉ mà thôi. Chỉ có người thứ
mười đã tìm được ơn cứu độ bởi vì anh ta đã hiểu rằng vị Thầy ấy không phải là
một người chữa bệnh đơn thuần.
Như mười người phung cùi, chúng ta cũng
có thể hướng về phía Chúa và kêu xin Ngài cứu giúp chúng ta. Chúng ta cầu xin
cho mình, cho những người đau yếu và cho thế giới đang đau khổ vì bạo lực, chiến
tranh và đủ mọi tai ương. Tin mừng nói rằng Chúa Giê su không im lặng trước lời
kêu cứu từ sự khốn khổ của chúng ta. Người luôn luôn lắng nghe những người bé mọn,
những kẻ đau yếu, những người bị xã hội lọai trừ. Ngài tiếp nhận tất cả những
ai đến với Ngài. Khi sai họ đến với Thầy cả, Ngài tái hội nhập họ vào cộng đòan
để họ tìm lại chỗ đứng của mình. Đó là sự ưu ái Ngài dành cho họ, và cũng muốn
dành cho chúng ta.
Nhưng vẫn còn vấn đề cho người phung
cùi thứ mười. Vì là một người Sa ma ri.
ông không thể trình diện với vị thầy cả, vì có thể ông sẽ bị đuổi đi. Bởi
thế ông quay trở lại và đến cùng Chúa Giê su. Ông suy nghĩ rằng mình không thể
làm điều gì khác hơn. Còn chín người kia đã làm theo như những gì lề luật dạy,
nhưng họ đã không thực sự gặp gỡ Thiên Chúa. Người Sa ma ri là người duy nhất
đã lãnh nhận ơn Cứu độ. Lời tạ ơn của ông là chính cách diễn tả đức tin cứu
thoát ông ta. Cầu nguyện không chỉ là lịch sự cám ơn Thiên Chúa. Lời kinh đích
thực chính là lời kinh giúp chúng ta lãnh nhận ơn cứu độ và khép mình theo tình
yêu Thiên Chúa ban cho chúng ta.
Vì thế ngày chủ nhật hôm nay chúng ta
được mời gọi đến đức tin. Nhưng không có đức tin nếu không có lòng khiêm nhường
sâu xa và từ bỏ chính mình. Naaman đã bỏ tính kiêu căng. Ông đã nhận ra quyền
năng của Thiên Chúa Israel và đã ra đi đến đó với ý muốn cương quyết là tôn
vinh Thiên Chúa đã chữa lành ông. Ngày nay cũng thế, chính Thiên Chúa tiếp tục
hành động với những phương tiện nghèo nàn: Cha sở Ars, Thánh nữ Bernadetta Lộ Đức,
Mẹ Têrêxa và nhiều người khác.
Là người Ki tô hữu, chúng ta được sai
đi làm chứng cho Ơn cứu độ của Thiên Chúa trong xã hội hôm nay, mang đậm dấu ấn
bệnh phung cùi của sự lãnh đạm và duy vật. Nhiều người bị nhấn chìm trong buồn
nản và lo âu bở vì họ mất phương hướng cũng như lí do để sống. Chúa Giê su chỉ
muốn chữa lành họ khỏi căn bệnh mà họ không biết.
Thế giới chúng ta cần những chứng nhân
vui tươi và trong sáng, không sợ trả lẽ về niềm hi vọng thúc đẩy họ. Thiên Chúa
đã đặt trên đường chúng ta những người cần được giúp đỡ để trở về với Người và
tiến triển trong đức tin.
Tụ họp để loan báo tin mừng, chúng ta
ca ngợi Thiên Chúa vì tất cả những gì Ngài đã làm cho chúng ta. Người chữa lành
chúng ta khỏi các chứng bệnh phung cùi; Ngài cho chúng ta đứng lên và sai chúng
ta đi đến với người khác. Hành vi tạ ơn sau rước lễ không chỉ là một vài giây
phút trước khi xong Thánh lễ; nó phải được kéo dài trong suốt tuần lễ trong chứng
từ vui tươi vì được giải thoát: “Chúa đã làm cho tôi nhiều điều kì diệu. Danh
Ngài là Thánh”.
ĐÀO
SÂU
HÃY
LUÔN TẠ ƠN THIÊN CHÚA
2 V 5,14-17 Ông Naa-man, người Sy-ri được
chữa lành bệnh phung cùi nên tin vào Thiên Chúa Ít-ra-ên
Tv 98,1, 2-3ab, 3cd-4 Thiên Chúa đã tỏ
lộ quyền năng của Người trước mặt chư dân
2 Tm 2,8-13 Hãy luôn trung thành với Đức
Ki tô vì Người luôn tín trung
Lc 17,11-19 Mười người được chữa lành bệnh
phung cùi nhưng chỉ có người Sa-ma-ri chúc tụng tạ ơn Thiên Chúa
1. HỎI: Ba bài đọc liên kết với nhau
theo chủ đề nào?
THƯA: HÃY LUÔN TẠ ƠN THIÊN CHÚA. Tướng
Naa-man người xứ A-ram sau khi được chữa khỏi bệnh cùi đã tỏ lòng biết ơn và
tin vào Thiên Chúa (Bđ1) cũng giống như người Samari phung cùi đối với Chúa Giê
su (BTM). Dù đang bị giam cầm, Thánh Phao lô vẫn tin tưởng vào Đức Ki tô vì phần
rỗi của những người được Chúa chọn (Bđ 2).
2. HỎI: Sách các Vua là sách gì?
THƯA: Sách Các Vua là quyển sách được xếp
vào loại ‘Sách Sử’, ghi chép lại lịch sử song song ở hai Vương quốc trong năm
thế kỉ, từ thế kỉ thứ 10 đến thế kỉ thứ 6 trước Công Nguyên. Sau khi Vua
Sa-lô-mon chết năm 933, Ít-ra-ên bị chia thành hai vương quốc: vương quốc phía
Bắc gọi là Ít-ra-ên, và vương quốc phía Nam là Giu-đa.
3. HỎI: Sách các vua chép sử để làm gì?
THƯA: Sách các vua được xếp vào loại
sách sử, nhưng không phải là những quyển sách sử theo nghĩa hiện đại, cố gắng
ghi chép chính xác và khách quan hết sức có thể. Trái lại sách các Vua nhằm đưa
ra một bài học giáo lí cho độc giả, qua những câu truyện được kể lại, tác giả
cho thấy chỉ có lòng trung tín với giao Ước mà Thiên Chúa đã kí kết mới bảo đảm
hạnh phúc cho dân mà thôi.
4.
HỎI: Tiên tri Ê-li-sa là ai?
THƯA:
Ê-li-sa thực hiện sứ mạng tiên tri ở Vương quốc phía Bắc vào giữa khoảng những
năm 850 và 800. Ông là con thiêng liêng và là người kế thừa tiên tri Ê-li-a.
Các tác giả Kinh thánh gán cho ông những quyền phép giống như một tiên tri lớn.
Về sau khoảng năm 200 trước CN, sách Huấn ca có tóm tắt cuộc đời ông như sau: ‘Khi
ông Ê-li-sa được ẩn trong cơn lốc, thì ông Ê-li-sa được đầy thần khí của người.
Suốt đời ông Ê-li-sa, không thủ lãnh nào có thể làm ông lung lạc, cũng chẳng ai
khuất phục được ông. Đối với ông, chẳng có gì là quá sức, ngay cả khi ông đã
qua đời, thân xác ông vẫn còn giữ năng lực của một tiên tri. Lúc sinh thời, ông
đã làm nhiều dấu lạ, sau khi chết, ông vẫn còn thực hiện những điềm thiêng’ (Hc
48,12-14).
5.
HỎI: Tiên tri Ê-li-sa được gọi như thế nào?
THƯA:
Ê-li-sa là vị tiên tri nổi tiếng thời Cựu Ước. Cách ông được chọn làm tiên tri
cũng rất lạ lùng. Khi ông đang cày ruộng với dàn cày12 con bò, thì tiên tri
Ê-li-a đến ném chiếc áo choàng như dấu chỉ trao sứ vụ tiên tri cho ông. Ông liền
giết bò và lấy cày làm củi để nấu thức ăn để tạ thầy mình. Sau khi Ê-li-a được
cất về trời trong cơn gió lốc, ông tiếp tục sứ vụ của thầy mình suốt 60 năm từ
năm 892-832 trước Công nguyên như trong Sách Các Vua quyển II ghi lại (cch.
5-8).
6.
HỎI: Điểm nổi bật trong sứ vụ tiên tri Ê-li-sa là gì?
THƯA:
Ông không để lại cho hậu thế một tác phẩm nào. Sở dĩ ông nổi tiếng và được người
đời sau ca tụng, đó là nhờ các phép lạ của ông được ghi lại trong sách các Vua
quyển thứ 2. Trong số đó, có các phép lạ như: ông đã lấy áo choàng thầy mình đập
xuống nước sông Gio-đan, và nước rẽ ra để ông đi qua (2V2,14); ông lấy muối khử
nước độc hóa lành (2V2,19); ông can thiệp nhiều lần cho gia đình bà Su-nêm, nhất
là cho con trai bà sống lại (2V4,8); cho dầu đầy bình cứu giúp người đàn bà
nghèo khổ trả nợ và sinh sống (2V4,1-7). Nổi tiếng hơn cả và được nhắc lại
trong phụng vụ là phép lạ cho bà Su-nêm sinh con trai (2V4, 8-16) và phép lạ cứu
chữa tướng quân Sy-ri khỏi bệnh phong cùi (2V5).
7.
HỎI: Bối cảnh bài đọc một như thế nào?
THƯA:
Naa-man là tướng quân Sy-ri. Ông bị mọi người xa lánh vì không chỉ là người ngoại
mà còn là mắc bệnh phung cùi. Ông coi đó là một điều chúc dữ. May mắn thay, vợ
ông có người đầy tớ Ít-ra-ên mách cho ông biết ở Sa-ma-ri có một tiên tri lớn
có thể chữa ông khỏi bệnh. Vua Sy-ri liền gửi thư giới thiệu Naa-man với vua
Sa-ma-ri để nhờ cho người chữa bệnh cho Naa-man. Được tin ấy, tiên tri Ê-li-sa cho
người bảo Naa-man đến với mình. Khi Naa-man mang đủ thứ lễ vật đến, thì vị tiên
tri cho người đầy tớ đến bảo Naa-man hãy đi xuống sông Gio-đan tắm bảy lần thì
sẽ được sạch. Vừa nghe, Naa-man giận dữ định quay về, nhưng nhờ các đầy tớ can
gián, Naa-man nghe lời xuống sông tắm như lời tiên tri dạy.
8.
HỎI: Nội dung bài đọc một như thế nào?
THƯA:
Bài đọc một hôm nay kể lại việc tiên tri Ê-li-sa chữa tướng Naa-man người Sy-ri
khỏi bệnh phong cùi. Ông đã phải tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa nơi
con người của Chúa là tiên tri Ê-li-sa. Ông đã phải vâng theo lệnh của tiên tri
và xuống tắm bảy lần trong dòng sông Gio-đan, cho dù nước của sông nầy không sạch
bằng sông Đa-mát bên Sy-ri. Naa-man dìm người bảy lần trong giòng sông Gio-đan
và da thịt ông trở nên như da thịt một trẻ nhỏ. Sau khi được chữa lành, ông đã
tuyên xưng rằng: Không đâu có Thiên Chúa ngoại trừ ở Ít-ra-ên. Câu chuyện nầy rất
gần với bài Phúc Âm thánh Luca kể lại phép lạ Chúa chữa lành mười người phung
cùi.
9.
HỎI: Bài đọc nầy để lại cho ta điều gì?
THƯA:
Ba bài học: thứ nhất, không phải tiên tri mà chính là Thiên Chúa đã chữa lành
cho ông Naa-man khỏi bệnh phung cùi. Thứ hai, không có một hành vi lạ lùng hay
phù phép nào cả, mà chỉ cần vâng theo lệnh truyền, xuống sông tắm là được quyền
năng của Thiên Chúa chữa lành. Người không đòi gì khác hơn là tin tưởng vào Người.
Thứ ba, để tạ ơn Người không cần phải có lễ vật gì, mà chỉ cần nhận biết điều
Người ban cho, như Chúa Giê su dạy: ‘Anh em đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy
cho nhưng không’ (Mt 10, 8).
10.
HỎI: Bài đọc 2 (2 Tm 2, 8-1) có nội dung như thế nào?
THƯA:
Dù đang bị xiềng xich, Thánh Phao lô vẫn làm tông đồ, vẫn rao giảng đức tin bằng
chính cách chịu đau khổ. Ngài vẫn hân hoan ca tụng Thiên Chúa và quyết cùng chết
với Chúa Giêsu để được cùng sống với Ngài.
11.
HỎI: Ngữ cảnh bài Tin mừng (Lc 17, 11-19) như thế nào?
THƯA:
Cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem tiến gần đến đích điểm (17, 11–18,14). Sau
khi nhắc về hành trình này lần thứ ba (hai lần trước: 9, 51; 13, 22), diễn ra
biến cố Chúa Giê su chữa lành 10 mười người phung cùi. Có 2 ý chính: 1. Chúa
Giê su gặp và chữa lành mười người phung cùi (17,11-14). 2. Lòng biết ơn tương
phản với sự vô ơn (17,15-19).
12.
HỎI: Chúa Giê su gặp 10 người phung cùi ở đâu?
THƯA:
Chúa Giê su gặp 10 người phung cùi khi cùng với các môn đệ đang trên đường lên
Giê-ru-sa-lem. Ngài biết cuộc hành trình đó đưa Ngài đến nơi hoàn thành thánh ý
Thiên Chúa Cha trong sứ mạng cứu độ con người qua cuộc khổ nạn, chết và sống lại.
13.
HỎI: Tại sao 10 người phung cùi phải đứng ở đàng xa?
THƯA:
Vì Lề luật Mô-sê cấm họ đến gần bất cứ ai, sợ làm ô uế người khác về nhiều
phương diện. Phung cùi là bệnh hay lây và vào thời đó, phung cùi là dấu chỉ bị
Thiên Chúa chúc dữ.
14.
HỎI: So sánh cử chỉ Chúa Giê su và Tiên tri Ê-li-sa trong bài đọc một?
THƯA:
Chúa Giê su và tiên tri Ê-li-sa không làm một cử chỉ nào để thực hiện phép lạ.
Cũng như Chúa Giê su, Ê-li-sa chỉ ra lệnh: ‘Hãy đi tắm bẩy lần trong dòng nước
Gio-đan và ông sẽ được sạch’. Trong cả hai trường hợp, vâng theo lệnh truyền đã
mang đến cho người phung cùi sự lành sạch.
15.
HỎI: Tại sao người Sa-ma-ri quay trở lại tạ ơn Thiên Chúa?
THƯA:
Vì anh ta đã gặp Chúa Giê su và tin rằng Ngài chính là đấng Cứu độ. Dù bị coi
là lạc đạo, anh biết rằng sự sống và sự chữa lành đến từ Thiên Chúa, nên anh
quay trở lại, và nhờ được lành sạch nên anh được đến gần Chúa Giê su. Anh ta sấp
mình dưới chân Chúa Giê su, một cử chỉ thờ phượng dành riêng cho Thiên Chúa.
16.
HỎI: Tại sao chín người kia không trở lại tạ ơn Chúa Giê su?
THƯA:
Họ đã gặp Chúa Giê su, nhưng họ không nhận ra Ngài là đấng Cứu thế. Vì thế, họ
chỉ quan tâm đến việc làm theo những điều Lề luật dạy, mà không để ý đến việc tạ
ơn Chúa Giê su, người đã chữa lành họ.
17.
HỎI: Như vậy điều mà các sách Tin mừng muốn đề cao là gì?
THƯA:
Các sách Tin mừng đều nhấn mạnh: ơn cứu độ dành cho tất cả mọi người, nhưng
không phải những người gần nhất đã biết lãnh nhận một cách xứng đáng. Thánh
Gioan nói: ‘Ngài đã đến nhà các gia nhân của Ngài nhưng họ đã không nhận ra Ngài’
(Ga 1,11).
18.
HỎI: Việc thánh Lu ca đề cao người Sa-ma-ri có ý gì?
THƯA:
Ngài muốn nhấn mạnh 3 điều: một là ơn cứu độ mà Chúa Giê su đã thực hiện trong
cuộc thương khó, sự chết và phục sinh được dành cho tất cả mọi người không trừ
ai. Hai là tạ ơn Thiên Chúa là ơn gọi của dân ưu tuyển, nhưng thỉnh thoảng
chính những người ngoại thường bị coi là những kẻ rối đạo lại làm tốt nhất. Ba
là thông thường những người nghèo có tâm hồn rộng mở hơn nên dễ gặp Thiên Chúa
hơn.
19.
HỎI: Tại sao có một người Sa-ma-ri đi chung nhóm với người Do Thái?
THƯA:
Bởi vì ngôi làng toạ lạc ngay biên giới giữa Ga-li-lê và Sa-ma-ri, nên nhóm người
đã được hình thành gồm chín người Ga-li-lê và một người Sa-ma-ri: dù tương quan
không tốt, nhưng trong nỗi khốn cùng, người Sa-ma-ri và chín người Do thái bệnh
tật cảm thấy gần gủi và giúp đỡ lẫn nhau.
20.
HỎI: Tại sao Chúa Giêsu không chữa ngay cho họ mà lại bảo những người phong cùi
hãy đi trình diện với các Tư tế?
THƯA:
Chúa Giê su dạy các người phung cùi chấp hành luật thanh tẩy như đã qui định
trong Luật Mô-sê (Lv 14,2). Thật vậy, Lề luật buộc người phong cùi phải đến
trình diện với thầy tư tế, không phải để được chữa lành, nhưng để được chứng nhận
là đã được lành bệnh.
21.
HỎI: So với những phép lạ khác, phép lạ nầy có gì đặc biệt?
THƯA:
Nét độc đáo này thể hiện trong phản ứng của Chúa Giêsu: Ngài ngạc nhiên trước tấm
lòng biết ơn của một người thụ ơn duy nhất. Điều ấy khiến Ngài dành cho người
Sa-ma-ri sự cứu chữa toàn diện cùng với ơn tha tội. Đứng trước biến cố lạ lùng
được chữa khỏi bệnh phong cùi, chỉ có người Sa-ma-ri (người ngoại) cảm thấy nhu
cầu và bổn phận tạ ơn, ‘cất tiếng lớn chúc tụng Thiên Chúa’. Tất cả mọi người
tuân theo lệnh của Chúa đã chiến thắng sự thử thách của đức tin, nhưng chỉ có một
người đã vượt qua sự thử thách của lòng biết ơn.
22.
HỎI: Qua phép lạ nầy, Chúa Giê su muốn mạc khải điều gì?
THƯA:
Qua phép lạ chữa lành người phung cùi, Chúa Giê su muốn cho thấy quyền năng và
lòng thương xót của Thiên Chúa tỏ hiện nơi Ngài. Ngài chính là ‘Thiên Chúa hiển
linh’ ở trần gian, và Nước Thiên Chúa đã hiện diện nơi bản thân Ngài.
23.
HỎI: Câu chuyện xảy ra trong cuộc đời Chúa Giêsu mời gọi chúng ta suy nghĩ về
điều gì?
THƯA:
Về nhân đức của lòng biết ơn. Điều nầy thật khẩn thiết vì chúng ta đang dần dần
đánh mất nhân đức ấy đối với Thiên Chúa và tha nhân. Con người hiện đại huênh
hoang rằng mình luôn là người ‘sáng tạo’ hơn là ‘thụ tạo’, liên tục bị lôi cuốn
bởi những lời mời mọc mà tên cám dỗ khi xưa đã dụ dỗ ông A-đam và bà Ê-và: ‘Ông
bà sẽ giống như Thiên Chúa’ (St 3,4-5), có nghĩa là: ‘Ông bà sẽ được độc lập khỏi
Thiên Chúa, ông bà có thể quyết định điều gì là tốt và điều gì là xấu, trở
thành người phân định luân lí’. Và như thế, con người chối bỏ Tình yêu, chỉ lo tìm
kiếm căn tính của mình nơi bản thân (x. Stk 3). Và sự sống mà không có Thiên
Chúa, đối với tổ tông loài người cũng như chúng ta, đã trở thành một thất bại, vì
nó hạ thấp phẩm giá con người và làm sai lệnh các tương quan với Đấng Tạo Hóa,
với mọi vật và với tha nhân.
24.
HỎI: Tại sao chúng ta phải tạ ơn Thiên Chúa?
THƯA:
Chúng ta phải dâng lời cảm tạ Thiên Chúa trước hồng ân liên tục và rộng lượng của
Thiên Chúa: từ cuộc sống vật chất đến đời sống thiêng liêng, từ nhu cầu hằng
ngày đến ơn cứu độ muôn đời trong Chúa Giêsu Kitô. Bỏ qua lời tạ ơn Thiên Chúa,
thì lời cám ơn đối với đồng loại cũng biến mất. Thiếu sót này làm cho cuộc sống
chung trở nên khô khan, cuộc sống hàng ngày trở nên nặng nề vì thiếu vắng tình
người. Cộng đoàn không còn sinh lực để vươn lên.
25.
HỎI: Thực thi sứ điệp Lời Chúa như thế nào?
THƯA:
1. Thiên Chúa làm ơn không phải để được đền ơn. Nhưng người chịu ơn phải biết
thể hiện lòng biết ơn.
2. Cách tốt nhất và đầy đủ nhất để thể
hiện lòng biết ơn là vững vàng trong đức tin và dấn thân loan báo Tin mừng Cứu
Độ của Thiên Chúa.
GLCG 2638 Cũng như trong kinh nguyện khẩn
cầu, mọi biến cố và mọi nhu cầu đều có thể trở thành dịp để dâng lời tạ ơn. Các
thư của thánh Phao-lô thường khởi đầu và kết thúc bằng một lời tạ ơn, và luôn
luôn nhắc tới Chúa Giê-su. ‘Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh, Thiên Chúa muốn anh
em làm như vậy, vì anh em đã được kết hợp với Ðức Ki-tô Giê-su’ (Tx 5, 18).
‘Anh em hãy siêng năng cầu nguyện; trong khi cầu nguyện, hãy tỉnh thức mà tạ
ơn’ (Cl 4, 2). (X. Lời kinh ca ngợi 2640-2641).