Suy Niệm
Lời Chúa Chúa Nhật XXXII Thường Niên Năm B
ĐỂ “CỦA CHO” THÀNH LỄ DÂNG ĐẸP LÒNG CHÚA
I. HỌC
LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG:
Mc 12, 38-44
(38)
Trong lúc giảng dạy, Đức Giê-su nói rằng: “Anh em phải coi chừng những ông kinh
sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở
những nơi công cộng. (39) Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi
cỗ nhất trong đám tiệc. (40) Họ nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ
đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn”. (41)
Đức Giê-su ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát
xem đám đông bỏ tiền vào hòm đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền.
(42) Cũng có một bà góa nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần
tư đồng bạc Rô-ma. (43) Đức Giê-su liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo
thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. (44) Quả vậy,
mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó. Còn bà này, thì
rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà
có để sống.
2.Ý CHÍNH: Bài Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần tương
ứng với hai hạng người tiêu biểu trong đạo Do thái là giới kinh sư và giới bà
góa nghèo như sau: Trước hết, Đức Giê-su khiển trách thói đạo đức giả của các
kinh sư Do thái, biểu lộ qua 4 thói xấu như: ăn mặc đài các, tìm kiếm hư danh,
tranh giành địa vị, đạo đức vụ lợi. Sau đó, Người đề cao lòng đạo đức của một
bà góa nghèo, biểu lộ qua việc dâng cúng tiền bạc vào Đền Thờ. Tuy số tiền bà
dâng không bao nhiêu, nhưng nhờ có lòng hy sinh, nên bà đã được Đức Giê-su đánh
giá là đã bỏ vào thùng nhiều hơn mọi người.
3.CHÚ THÍCH:
- C 38: + “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư”: Đức Giê-su cảnh giác dân chúng coi chừng kẻo bị
lây nhiễm các thói xấu của các kinh sư hay luật sĩ. + xúng xính trong bộ
áo thụng: Áo thụng là loại áo choàng dài chấm đất mà các tư tế
thường xử dụng khi làm việc tế tự. Người Do thái thường tỏ lòng tôn kính đối
với các tư tế. Các kinh sư cũng thích mặc loại áo này để tỏ ra mình có lòng đạo
đức và cũng mong được dân chúng kính trọng như vậy. Đây là thói xấu kiêu ngạo,
tự cao tự đại (x. Mt 23, 5). + thích được người ta chào hỏi ở những nơi công
cộng: Người Do thái hay chào hỏi các kinh sư, là những người giải thích
Kinh Thánh tại các hội đường vào ngày Sa-bát. Danh hiệu “ráp-bi” có nghĩa là
“đại nhân của tôi”, được dùng để xưng hô khi nói chuyện với các kinh sư. Vì
muốn được chào hỏi tôn kính, nên các ông thích đi đi lại lại ở nơi có nhiều
người để được thiên hạ bái chào. Đây là thói xấu ham mê danh vọng.
- C 39-40: + chiếm ghế danh dự trong hội đường: Tại mỗi hội đường Do thái đều có một chiếc ghế
danh dự đặt trước tủ đựng kinh sách. Đối diện với cộng đoàn là chỗ dành cho
những bậc vị vọng. Ai ngồi ở đây thì không bị che khuất và mọi người trong hội
đường có thể nhìn thấy họ. Các kinh sư vốn tự cao nên thích ngồi ở hàng ghế
danh dự này. Đây là thói xấu ham mê chức quyền. + thích ngồi cỗ nhất
trong đám tiệc: Tại đám tiệc của người Do thái, vị trí chỗ ngồi được
xếp đặt rõ ràng. Chỗ danh dự nhất là ở bên phải gia chủ. Chỗ thứ hai là bên
trái, và tiếp tục như vậy từ phải sang trái chung quanh bàn ăn. Người ta dễ
dàng nhận ra thứ bậc của người khách, căn cứ vào chỗ ngồi được gia chủ sắp xếp
cho họ trong bữa tiệc. + nuốt hết tài sản của các bà góa: Các bà
góa thường thiếu hiểu biết, nhẹ dạ nên được xếp vào hạng người cần được quan
tâm giúp đỡ (x. Đnl 24, 17.19). Mỗi khi bị bắt nạt chèn ép, các bà góa thường cậy
nhờ các kinh sư bênh vực. Đây là cơ hội thuận tiện để một số phần tử xấu trong
hàng ngũ kinh sư lợi dụng làm tiền, bằng cách chỉ vẽ Lề luật và hứa cầu nguyện
cho. + làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ: Việc các kinh sư và
người biệt phái hay cầu nguyện dài dòng thì ai cũng rõ. Người ta bảo rằng:
Những bài cầu nguyện ấy không nhằm dâng lên Thiên Chúa tâm tình yêu mến mà chỉ
nhằm phô trương công đức trước mặt người đời. Do đó, họ cố tình cầu nguyện tại
ngã ba đường, nơi mà người ta dễ thấy mà ca tụng lòng đạo đức của họ. +
họ sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn: Luật Môsê coi việc xử tệ với các người
cô thế cô thân, trong đó có các bà góa là một trọng tội và sẽ bị trừng phạt
nghiêm khắc (x. Xh 22, 21-23). Đức Giê-su cho biết: Những hành vi này của các
kinh sư chỉ là hình thức đạo đức giả và vụ lợi, nên họ sẽ bị kết án nghiêm khắc
trong ngày tận thế.
-
C 41-42: + Đức Giê-su ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ.
Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao: Giữa sân dành cho
dân ngoại và sân dành cho phụ nữ là cửa Đẹp. Đức Giê-su đã đến ngồi tại đó sau
khi đã tranh luận trong sân dành cho dân ngoại và tại hành lang Đền Thờ. Trong
sân dành cho phụ nữ có đặt mười ba thùng đựng tiền của dân chúng tự nguyện đóng
góp, dùng để làm bánh tế lễ, mua dầu đèn và các chi phí khác.+ bà góa
nghèo: Một thân phận đáng thương vì bị cô thế cô thân không nơi nương
tựa, nhất là còn nghèo tiền bạc vật chất. + hai đồng tiền kẽm trị giá một
phần tư đồng bạc Rô-ma: Đây là đơn vị tiền tệ nhỏ nhất, ám chỉ sự nghèo
khó cùng cực của bà này. Sở dĩ tác giả chú thích hai đồng tiền kẽm trị giá một
phần tư đồng bạc Rô-ma là nhằm giúp các độc giả La-Hy thời bấy giờ dễ hiểu hơn.
Ở đây Mác-cô muốn nhấn mạnh đến sự tương phản giữa hai số tiền dâng cúng của
hạng người giàu và kẻ nghèo hèn.
-
C 43-44: + Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết: Nhiều
hơn ai hết là theo cách đánh giá của Đức Giê-su khi xét theo tỷ lệ giữa số tiền
bà dâng cúng với tài sản của bà. Bà đã dâng ngay cả những cái cần cho cuợc sống
hằng ngày, giống như lời Đức Chúa nói với ngôn sứ Sa-mu-en khi ra lệnh cho ông
xức dầu phong Đa-vít lên làm vua thay thế vua Sa-un: “Người phàm chỉ thấy điều
mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (1 Sm 15, 7). + mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa:
Của dư thừa ám chỉ sự dâng cúng kém giá trị, vì “của nhiều lòng ít”. +
còn bà này thì rút từ cái túng thiếu của mình: Bà “của ít lòng
nhiều”: Tuy tiền dâng ít nhưng kèm hy sinh bản thân nên đã tăng giá trị lên
nhiều lần.
4. CÂU HỎI:
1) Đức Giê-su đã quở trách bọn kinh sư và biệt
phái về các thói xấu nào?
2) Người đánh giá thế nào về hai đồng tiền kẽm mà
bà góa nghèo đã dâng trong Đền thờ? Tại sao?
II. SỐNG
LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA:
Thầy bảo thật anh em: “Bà góa nghèo đã bỏ thùng nhiều hơn ai hết”(Mc 12, 43).
2. CÂU
CHUYỆN:
1)
TRÁNH LÀM VIỆC BÁC ÁI ĐỂ TÌM HƯ DANH:
Một bà nọ là thành viên của một hội đoàn đạo đức chuyên
đi làm công tác bác ái xã hội. Một hôm, bà nhận được giấy mời đến dự buổi họp
mặt bất thường để quyên góp giúp đồng bào bị thiên tai lũ lụt vùng Đồng Bằng
Sông Cửu Long. Bà dự tính kỳ họp này sẽ tự nguyện đóng góp số tiền một triệu
đồng. Nhưng trong buổi họp, khi thấy có nhiều Hội viên khác cũng đóng góp số
tiền một triệu ngang bằng với mình, bà muốn tỏ ra quảng đại hơn người, nên khi
tới phiên, bà đã ghi vào sổ vàng cứu trợ số tiền hai triệu đồng. Rồi
thay vì rút bao thư chứa hai triệu, thì bà lại rút nhầm bao thư trong đó có số
tiền hai trăm USD tương đương năm triệu đồng mà bà định mang đi vào
sau buổi họp mặt hôm đó để mừng đám cưới con trai của bà bạn thân đã từng giúp
đỡ bà rất nhiều. Khi phát hiện ra đã đưa lộn phong bì, bà muốn đến bàn thu ngân
xin lại số tiền đã góp dư kia, nhưng lại sợ bị mất thể diện trước mặt người
khác. Cuối cùng bà đành chịu vậy, nhưng tự trách mình đã bất cẩn không kiểm tra
phong bì trước khi nộp cho thủ quỹ. Nhiều ngày sau đó mỗi lần nghĩ tới là bà lại
cảm thấy nuối tiếc số tiền đã lỡ ủng hộ cho đồng bào bị thiên tai lũ lụt ngoài
dự tính kia.
2)
GÃ BÁN THỊT VÀ LÃO ĂN MÀY:
Kho tàng cổ tích Ả-rập có câu chuyện vui như sau: Một gã bán thịt nướng kia
rất keo kiệt và khó tính. Một hôm một lão ăn mày từ nơi khác đến ngồi ăn xin
bên cạnh quán thịt nướng của gã. Lão ăn mày đói bụng nhìn những miếng thịt
nướng trên vỉ sắt đang bốc khói, chỉ biết hít thật sâu để đón nhận mùi thịt
thơm bay vào mũi và liên tục nuốt nước miếng vì không có tiền mua thịt. Cuối
cùng lão nghĩ ra một kế hay: lão ta móc trong bị ra một miếng bánh mì khô mua
từ ban sáng, lẳng lặng đến gần lò than hơ miếng bánh trên vỉ thịt, với hy vọng
khói thịt bốc lên sẽ ám vào miếng bánh. Sau đó, lão ta vui vẻ ăn hết miếng bánh
đã được ám khói. Còn gã bán thịt đang ngồi trong quán thấy vậy liền chạy ra túm
lấy áo lão ăn mày đòi trả tiền. Bấy giờ
lão ăn mày liền nói: “Lão đâu có lấy thịt nướng nào của anh. Khói thịt
bay lên đâu phải là thịt”. Gã bán thịt hét lớn: “Khói từ thịt đang nướng bay ra
là thuộc về miếng thịt, nên lão ăn bánh có ám khói thịt bay lên cũng phải trả
tiền”. Hai người cự cãi không ai chịu thua ai. Cuối cùng họ đưa nhau ra toà yêu cầu quan tòa
cứu xét. Quan tòa liền truyền cho lão ăn mày lấy ra một đồng tiền cắc ném mạnh
xuống nền nhà phát ra một tiếng “keng”. Rồi quan toà phán quyết cho hai người
như sau: “Lão ăn mày được quyền hưởng khói bay ra từ miếng thịt, còn anh bán
thịt sẽ hưởng tiếng “keng” phát ra từ
đồng tiền của lão ăn mày”.
3)
CÁI CHẾT CỦA CÔ GÁI BÁN DIÊM NGHÈO KHÓ:
Vào một buổi tối mùa thu, nhà văn Anderson đi dạo phố một mình tại thủ đô
Copenhague. Ông bỗng nghe một giọng nói yếu ớt từ đằng sau
vọng lại: “ Chú ơi, mua hộ cháu bao diêm.” Nhà văn quay lại, chợt nhận ra một
đứa bé gái, gương mặt xanh xao, quần áo nhầu nát bẩn thỉu. “Chú ơi mua hộ cháu
bao diêm, cả ngày cháu chưa bán được một bao nào.” Giọng cô bé thật buồn. Nó
bùi ngùi kể lại hoàn cảnh đáng thương của nó. Mẹ chết sớm, con bé phải ở với
một người cha nghiện ngập và khá cọc cằn, nhưng nó rất thương bố nó. Nó cố lê
lết khắp nơi để bán diêm, kiếm chút tiền mang về cho bố những bữa ăn ngon.
Anderson xúc động cho con bé ít tiền. Con bé sáng rực đôi mắt và thầm nghĩ nó
sẽ mua về cho bố tối nay một ổ bánh mì thật ngon. “Chú ơi sao chú tốt với cháu
thế? Chú tên gì, và chú làm nghề gì ?” – “Chú tên Anderson, và chú làm nghề này”.
Nhà văn vừa nói vừa khoa tay vẽ vào khoảng không hình một cái bút, ám chỉ ông
là nhà văn. Đứa bé không hiểu, tưởng ông làm nghề bán bút giống như nó đi bán
diêm vậy. Anderson hẹn với đứa bé đến đầu năm tới, ông sẽ trở lại và cho nó một
món quà, còn bây giờ đã đến lúc ông phải đi xa.
Nhiều tháng trôi qua,
Anderson dường như đã quên lời hứa của mình. Một bữa nọ, tình cờ trở lại
Copenhague và ông chợt nhớ con bé bán diêm, nên đã ghé mua cho nó một chiếc áo
ấm, và đi tìm để tặng. Tuy nhiên người chủ tiệm bên đường đã cho ông biết con
bé bán diêm đã chết rồi: Ngày đầu năm, người ta thấy nó nằm chết cóng bên vệ đường.
Nó nằm chết giữa một đống bao diêm, trong đó có một bao đã hết nhẵn. Có lẽ nó
đốt diêm để sưởi cho bớt lạnh. Có điều là khi chết, khuôn mặt nó vẫn còn hồng
hào và dường như nó đang mỉm cười chờ đợi một ai đó. Anderson đứng chết lặng.
Người chủ tiệm nói tiếp: “Khi mang xác nó đi người ta thấy trong túi áo của nó
rơi ra một vật giống như chiếc quản bút làm bằng những que diêm. Chắc nó làm để
tặng ai đó tên Anderson, vì trên quản bút có viết hàng chữ “tặng chú Anderson”.
Câu
chuyện cảm động trên là một kỷ niệm buồn trong cuộc đời của nhà văn Anderson.
Câu chuyện này cũng giống như câu chuyện về người đàn bà góa nghèo trong Tin
Mừng Marcô hôm nay. Cô bé bán diêm và người đàn bà góa có nét giống nhau: Cả
hai đều là những người rất nghèo và bị xã hội bỏ rơi; tuy vậy cả hai đều có
lòng quảng đại, biết cho đi những gì mình có. Nhưng điểm giống nhau căn bản là tuy
nghèo vật chất, nhưng lại rất giàu về lòng nhân ái khi luôn biết nghĩ đến người
khác.
4) TINH THẦN NGHÈO CỦA THÁNH
PHAN-XI-CÔ KHÓ KHĂN :
Một giai thoại trong
cuộc đời thánh Phanxicô Assisi đã được nhà văn Nikos Kazantzakis viết thành cuốn
tiểu thuyết nội dung như sau: Sau khi Phanxicô đã phân phát cho người nghèo tất
cả của cải của mình, ngài bắt đầu đi lang thang đó đây khất thực, vừa đi đường vừa
ca hát. Một anh bạn cũ thân quen thấy vậy đã tỏ vẻ ngỡ ngàng và hỏi: “Này
Phanxicô, đôi giày đắt tiền, chiếc đồng hồ quý giá, quần áo sang trọng của anh
đâu cả rồi?”. Phanxicô trả lời: “ Tất cả những thứ đó là của ma quỷ, tôi đã trả
lại cho nó tất cả rồi.” Người bạn hỏi tiếp: “Anh đi lang thang đến đây từ đâu
và anh định sẽ đi đâu thế ? “ – “Tôi đến từ một nơi rất xa và tôi cũng đang trên
đường đi về nơi ấy”. Người bạn lắc đầu không hiểu và hỏi tiếp: “Thế tại sao anh
lại vừa đi đường vừa hát nghêu ngao như một thằng điên thế?” – “Tôi hát là để
khỏi bị lạc đường đó thôi.”
Là những người đi theo
Chúa Giêsu, chúng ta cũng rất dễ bị lạc đường, nếu chúng ta để cho của cải vật
chất điều khiển. Điều quan trọng là chúng ta phải phá đổ thới xấu ích kỷ của
mình để biết quảng đại cho đi giống như bà góa trong Tin mừng hôm nay.
5) LÒNG QUẢNG ĐẠI CỦA MỘT ĐÔI VỢ
CHỒNG NGHÈO:
Một cặp vợ chồng về
quê thăm họ hàng trong ngày nghỉ lễ. Họ lái xe được một quãng đường thì trời đổ
mưa tầm tã và xe thình lình bị hư dọc đường. Đêm đã khuya và lạnh mà họ thì lại
không quen thuộc đường lối. Sau khi đã hết mưa, họ bèn bỏ xe, đi bộ đến gõ cửa
một căn nhà gần đó có ánh đèn hắt ra. Khi họ bước vào thì gặp hai ông bà già.
Trước lời xin trú ngụ qua đêm của cặp vợ chồng, hai ông bà đã vui vẻ nói: Được
lắm, chúng tôi có sẵn một căn phòng trống. Sáng hôm sau, cặp vợ chồng dậy sớm
và chuẩn bị ra đi. Vì không muốn quấy rầy chủ nhà, người vợ để một số tiền lên
bàn, rồi rón rén mở cửa bước ra. Và họ thực sự bỡ ngỡ khi nhìn thấy hai ông bà
già đang co ro nằm ngủ trên sàn nhà ngoài phòng khách. Thì ra hai ông bà già
này đã nhường chỗ cho cặp vợ chồng trẻ, còn mình sẵn sàng nằm ngủ dưới đất. Câu
chuyện này giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa cao quí của sự hy sinh và tình yêu
thương của bà góa thời ngôn sứ Êlia và bà góa trong Tin mừng. Các bà đã cho đi tất
cả những gì mình có.
3. THẢO LUẬN: Trong những ngày này mỗi người chúng ta có thể chia sẻ những
gì cụ thể trong tầm tay của mình cho những người nghèo đói bất hạnh và bị bỏ
rơi để làm vui lòng Chúa?
4. SUY NIỆM:
1) Hãy quảng đại dâng cho Chúa mọi sự thuộc về mình:
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã lên án thái độ giả
dối của các kinh sư Do thái và Người đã dạy môn đệ phải quảng đại cho đi, noi
gương bà góa nghèo nọ đã dâng hai đồng
tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc Rô-ma, là số tiền nhỏ bé bà dùng
để nuôi bản thân mình trong một ngày. Bà đã được Đức Giê-su đánh giá cao việc
dâng cúng quảng đại này: “Thầy bảo thật
anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người
đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó. Còn bà này, thì rút từ cái
túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống”
(Mc 12, 43b-44).
Câu chuyện cổ tích Ả rập về anh hàng thịt nướng keo kiệt đối xử hà khắc đối
với kẻ nghèo nói trên cũng vẫn thường hay xảy ra trong xã hội hôm nay: Nhiều
lần chúng ta đã cư xử với người khác cách keo kiệt tương tự. Việt Nam chúng ta
có một câu chuyện vui về một ông bố keo kiệt và tham ăn như sau:
Một hôm sau một đêm thức trắng đánh dậm bắt được một giỏ mươi con cá, anh
ta về ngồi bên bếp than nướng cá để làm mồi nhậu lai rai một mình. Đứa con trai
nhỏ 4 tuổi ngửi thấy mùi thơm của cá liền khóc lóc đòi được ăn cá. Bà mẹ liền
dỗ dành cậu con yêu: “Con hãy nín đi để mẹ coi xem có con cá nào nhỏ, mẹ sẽ xin
bố cho con ăn nhé!”. Ông bố nghe vậy liền đáp: “Cho cái gì? Không có con cá nào
nhỏ cả, con nào cũng to bằng nhau hết !”.
Cũng vậy, nhiều lần chúng ta thường né tránh để khỏi giúp đỡ tha nhân bằng
câu nói: “Hãy đợi đấy! Khi nào làm ăn khá hơn, tôi sẽ chia sẻ giúp đỡ cho anh”.
Nhưng sự chờ đợi ấy sẽ kéo dài mòn mỏi không biết phải chờ đến bao giờ. Người
ta có thể nêu ra cả ngàn lý do để biện minh cho thái độ vô cảm, thiếu yêu
thương, không muốn giúp đỡ tha nhân của mình.
2) Giá trị của một hành động bác ái từ thiện hệ
tại chỗ nào ?
- Của cho không bằng tấm lòng người cho: Của nhiều mà lòng ít thì không quý
bằng của ít lòng nhiều. Hai bà góa thời ngôn sứ Ê-li-a và thời Đức Giê-su sở dĩ
được đề cao là do lòng yêu mến đối với người của Chúa và với công việc nhà Chúa.
Chính lòng yêu mến đã làm cho hành động của hai bà có giá trị trước mặt Chúa.
Và Chúa Giê-su đã khen bà góa trong Tin Mừng tuy chỉ bỏ hai đồng kẽm nhưng đã dâng
Chúa nhiều hơn tất cả những người khác đã bỏ nhiều tiền. Vì những người kia dâng
số tiền dư, còn bà goá này dâng Chúa tất cả những gì bà đang cần.
- Một việc lành của chúng ta chỉ thực sự tốt khi nó được
thực hiện với lòng mến. Câu chuyện về người đàn bà ủng hộ đồng bào bị lũ lụt
nói trên: Ban đầu bà đã có quyết định tốt khi dự định bỏ thùng ủng hộ một triệu
đồng. Nhưng khi thấy nhiều người khác cũng bỏ vào thùng một triệu như vậy, thì
bà liền tăng số tiền ủng hộ lên gấp đôi để tỏ ra quảng đại hơn người khác. Sau
đó việc rút nhầm bao thơ 200 đôla Mỹ tương đương năm triệu đồng để bỏ vào thùng
là ngoài ý muốn của bà, thể hiện qua việc bà tiếc nuối và muốn đến đòi lại số
tiền dư kia, nhưng do thói sĩ diện hão, nên đành chấp nhận số tiền đã lỡ bỏ
thùng hơn gấp nhiều lần. Số tiền bà góp này cũng không có giá trị về thiêng
liêng trước tòa Chúa phán xét sau này vì nó không phát xuất từ tình yêu tha
nhân, mà chỉ vì thói sĩ diện hão nhằm để tìm tiếng khen.
3) Về ba loại người cho và giá trị của ba cách
cho:
+ Một là người cho
cách bất đắc dĩ: Do muốn tránh bị quấy rầy, nên du cho mà trong lòng cảm thấy
bực bội. Loại người này thường phân trần với bạn bè: “Mình ghét hắn ta, nhưng
đành phải “thí” cho hắn ít tiền cho xong, để hắn mau biến đi khuất mắt!”.
+ Hai là người cho
để làm xong bổn phận: Loại người cho này dù đã cho mà vẫn không thấy vui.
Họ thường nói với bạn bè: “Mình bị rơi vào hoàn cảnh “tiến thoái lưỡng nan” :
“Bỏ thì thương mà vương thì tội!” Thôi thì đành giúp đỡ hắn cho xong của nợ !
”.
+ Ba là cho vì yêu
thương: Do tự nguyện cho người nghèo nên trong lòng người cho sẽ cảm thấy vui vẻ. Trường hợp người được cho vì
một lý do nào đó không nhận, thì người cho sẽ cảm thấy buồn. Loại người cho này
thường hay nói với những người chịu đau khổ
bất hạnh: “Tôi có thể giúp gì được cho bạn?” hoặc: “Tôi sẵn sàng chia sẻ
những khó khăn bạn đang gặp phải”. Cách cho thứ ba do này mới đẹp lòng Chúa và
chúng ta cần gắng thực hiện mỗi ngày, để của lễ chúng ta dâng sẽ bay lên trước
tôn nhan Chúa và mang lại hạnh phúc sau này cho chúng ta.
4) Hãy tập quảng đại cho đi noi gương Chúa Cha:
- Thiên Chúa Cha chúng ta đã biểu lộ một tình yêu quảng
đại để nêu gương cho chúng ta:
+ Chúng ta chỉ cần một bông hoa, mà Ngài lại ban cả cánh
rừng.
+ Chúng ta chỉ cần vài ngụm nước, mà Ngài lại ban cho cả
dòng suối.
+ Chúng ta chỉ cần vài hạt cát, mà Ngài lại cho cả bãi
biển rộng dài.
+ Chúng ta chỉ xin lương thực hàng ngày, mà Ngài lại ban cả
Mình Máu Thánh Chúa Giê-su.
- Chúa Giê-su phán: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20, 35). Mỗi ngày chúng ta nên thực hiện một số việc
quảng đại như PHĂNG-SÍT BAN-PHUA (Francis Balfour) đã liệt kê một số việc cụ
thể mà các tín hữu chúng ta nên thực hiện như sau:
+ “Món quà đẹp nhất tặng cho kẻ thù ghét ta là lòng khoan
dung tha thứ;
+ Quà tặng cho bạn bè là thái độ trung tín và chân thành,
+ Quà cho các em nhỏ là tấm gương bác ái và khiêm nhường phục vụ,
+ Quà tặng cho ông bố trong gia đình là thái độ tôn kính và vâng lời,
+ Quà cho bà mẹ là trái
tim cháy lửa yêu thương và chia sẻ công việc nội trợ,
+ Và cuối cùng, quà cho mọi người chung quanh là nụ cười thân thiện kèm theo cái bắt tay thân
ái, một lời khen thành thật, cùng
thái độ lắng nghe và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu noi gương Đức Giê-su”.
5. NGUYỆN CẦU
Lạy Chúa Giê-su. Cách đánh giá của Chúa trong Tin Mừng
hôm nay khác hẳn cách nhìn nhận sự việc của chúng con. Vì “Loài người nhìn mặt,
còn Chúa lại nhìn lòng!” (1 Sm 16, 7). Chúa khen bà góa nghèo đã bỏ tiền dâng cúng nhiều hơn
ai hết. Dù số tiền của bà nhỏ bé, nhưng bà “đã dâng tất cả những gì mình có để
nuôi sống mình”. Bà dâng do lòng mến Chúa thôi thúc, nên đã được Chúa đánh giá:
“Bà đã bỏ thùng nhiều hơn ai hết” (Mc
12, 43).
Về phần chúng con: Nhiều khi chúng con dễ bị
chán nản
buông xuôi việc tốt, khi không
được nhiều người
biết và khen ngợi... Xin Chúa thanh luyện ý hướng khí làm việc lành của chúng
con. Chúng con tin rằng: “Hữu xạ tự nhiên hương” (x. Mt 6, 1-4), nếu công việc chúng con làm thực sự tốt thì
sớm muộn cũng sẽ được người chung quanh nhận biết và họ sẽ ca ngợi tình yêu của
Thiên Chúa là Cha chúng con (x. Mt 5, 14-16).
X.
HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. –Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM