Suy Niệm Lời Chúa Thứ Bảy
Tuần II Mùa Vọng C
ĐẤNG PHẢI ĐẾN
LỜI CHÚA: Mt 17, 10-13
10 Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, các môn đệ hỏi Đức Giêsu
rằng: “Sao các kinh sư nói rằng ông Êlia phải đến trước?” 11 Người đáp: “Đúng thế, ông Êlia đến và sẽ chỉnh
đốn mọi sự. 12 Nhưng Thầy nói cho anh
em biết: ông Êlia đã đến rồi và họ không nhận ra ông, nhưng đã xử với ông theo
ý họ muốn. Con Người cũng sẽ phải đau khổ vì họ như thế”. 13 Bấy giờ các môn đệ hiểu Người có ý nói về ông
Gioan Tẩy Giả.
SUY NIỆM
Trong
cuộc sống, mỗi người thường ấp ủ một cho mình một ước mơ. Có người mơ ước một
cuộc sống hạnh phúc tận hưởng đầy đủ tiện nghi vật chất. Người khác lại mưu cầu
đạt đến sự hiểu biết về lẽ khôn ngoan. Với người Do Thái, khát vọng lớn nhất của
họ là được xem thấy Đấng Cứu Thế, Người sẽ đến để giải thoát họ khỏi ách nô lệ
đế quốc Rôma.
Vốn
là những người am hiểu Kinh Thánh, các kinh sư luật sĩ vẫn luôn tra vấn về những
câu hỏi: khi nào Đấng Cứu Thế đến, và Đấng ấy sẽ đến như thế nào. Ngay cả các
môn đệ của Đức Giêsu cũng có chung một thắc mắc ấy nên các ông cũng đặt câu hỏi
với Thầy Giêsu “Sao các kinh sư nói rằng
ông Êlia phải đến trước?” Hiểu được những thắc mắc của các môn đệ, Đức
Giêsu đã khẳng định cho các ông hiểu rõ về sự xuất hiện của các ngôn sứ đến trước
để dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Một sự thật đáng phải suy nghĩ đó là loài người
không đón nhận mặc khải của Thiên Chúa qua các ngôn sứ.
Đoạn
Tin Mừng hôm nay đề cập đến ba nhân vật: Ngôn sứ Êlia, Gioan Tẩy Giả và Đức
Giêsu. Cả ba danh xưng đều được nhắc đến như nhân vật quan trọng, đó là “Đấng
Phải Đến”. Cả ba đều đã đến với chung một số phận, đó là đều bị dân chúng từ chối,
thậm chí còn bị họ sát hại.
Thời
Cựu ước, ngôn sứ Êlia đã được sai đến để chỉnh đốn mọi sự, để nói cho dân biết
ý định của Thiên Chúa. Êlia là ngôn sứ lớn nhất trong các ngôn sứ, ông xuất hiện
vào khoảng thế kỷ IX trước Chúa Giêsu. Sau triều đại của vua Salômôn, vương quốc
Israel bị chia làm hai miền. Ở miền Bắc với thủ đô là Samari còn ở miền Nam là
Giuđêa.
Vào
năm 874, vua Akháp đã đánh thắng ba đội quân Átsua, Đamát và Môáp và đã lên
ngôi trị vì vương quốc Israel. Có quyền lực trong tay, Akháp đã vướng vào nhiều
những sai lầm. Ông kết hôn với con gái của vương quốc Tia là người ngoại giáo.
Từ đó Akháp nghe theo người vợ áp đặt
dân chúng thực hiện nghi lễ thờ thần Baan. Vì vậy Thiên Chúa đã gửi ngôn sứ
Êlia đến để chỉnh đốn lối sống sai lầm của Akháp (1V, 17-17). Êlia cho biết sẽ
có nạn đói kém và hạn hán kéo dài vì “trời sẽ không đổ mưa xuống đất nước
Israel”. Lời cảnh báo của Êlia đã không được đón nhận và ông còn bị sát hại.
Êlia đã phải trốn chạy vào sa mạc. Nơi đây, Thiên Chúa sai thiên sứ mang bánh
và nước tới cho Êlia và ông có đủ sức tiếp tục đi 40 đêm ngày tới núi Khôrép gặp
gỡ Thiên Chúa và thi hành theo ý Người muốn.
Tiếp
theo là ngôn sứ Gioan Tẩy Giả, ông cũng đến để chuẩn bị lòng dân, dọn sẵn một
con đường thuận tiện cho Đấng Cứu Thế đến. Gioan cũng đã bị bỏ tù và bị sát hại
vì ông lên tiếng tố cáo tội lỗi của vua Hêrôđê. Cuối cùng Đức Giêsu đến để hoàn
tất lời hứa cứu độ, và Người cũng sẽ phải chịu đau khổ như tất cả các vị ngôn sứ
trước. Người cũng đã đến nhà mình và gõ cửa nhưng người nhà chẳng ai nhận ra.
Những
gì Đức Giêsu nói với các môn đệ là sự thật, một sự thật rất thường tình mà cũng
đầy phũ phàng. Thế nhưng không vì sự thật đó mà Con Thiên Chúa từ chối đến với
nhân loại. Người đã biết trước điều đó và Người đã đến để thánh hóa, để yêu
thương và cứu độ tất cả. Những gì là chống đối, là thù nghịch, là chối bỏ, là
sát hại đều được Đức Giêsu đón nhận với tất cả tình thương sâu thẳm của một Vị
Thiên Chúa. Chúng ta được cứu độ không phải vì công kia việc nọ nhưng vì lòng
thương xót của Thiên Chúa.
Lịch
sử cứu độ là lịch sử của lòng thương xót, của tha thứ và kiếm tìm. Dù loài người
có phản bội bất trung đến đâu, Thiên Chúa vẫn một lòng yêu thương tha thứ. Dù
lòng người có ích kỷ hạn hẹp, dù nhân loại có dối lừa đi hoang thì Thiên Chúa vẫn
yêu thương vẹn tròn, vẫn chờ đợi ngóng trông. Con người là đối tượng để Thiên
Chúa yêu thương cứu độ. Dù người yêu có quay bước lỗi hẹn, dù cha mẹ có bỏ rơi
con cái, thì Thiên Chúa vẫn không quên con người. Bản chất của Thiên Chúa là
tình yêu, Người không ngừng thể hiện bản chất ấy bằng những hành động cụ thể
như yêu thương và bênh vực người nghèo khổ, chữa lành mọi chứng bệnh trong dân.
Thiên
Chúa vẫn luôn yêu thương và đến với chúng ta hàng ngày qua các biến cố. Con
Thiên Chúa đã mặc xác phàm để đến và ở lại với loài người chúng ta. Qua bí
tíchThánh Thể, hàng ngày chúng ta được thưởng nếm sự sống Thần Linh để sống dồi
dào sung mãn. Thiên Chúa vẫn đến với chúng ta qua từng công việc bổn phận với
những biến cố vui buồn lớn nhỏ của bản thân, của gia đình và của thời cuộc. Ước
gì chúng ta nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa để biết cải hóa con người mình
theo lời Chúa khuyên dạy.
Sống
tâm tình Mùa Vọng, mùa hồng ân, chúng ta có thời gian để chiêm nghiệm chân lý sự
sống, để thay đổi những gì chưa phù hợp với những giá trị của Tin Mừng. Ước gì
chúng ta thực hiện được lời thánh vịnh 142 “Ngay
từ buổi sớm mai, xin cho con nghiệm thấy tình thương của Chúa”.
Nt. Maria Anh Thư, OP