“Họ không cần phải đi đâu cả”
(Mt 14, 13-21)
1.
“Chạnh lòng thương”
Ra
khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đoàn người đông đảo, thì “chạnh lòng thương”;
và tình thương của Đức Giê-su được diễn tả bằng những hành động rất cụ thể:
chữa bệnh và cho ăn (x. c. 14; 15-21). Như thế, Đức Giê-su quan tâm đến sự sống
của con người chúng ở mức độ căn bản nhất, đó là sức khỏe và lương thực. Và
điều này hoàn toàn phù hợp với kinh nghiệm hằng ngày về ơn huệ của chúng ta,
như lời nguyện Thánh Vịnh diễn tả:
Tôi nằm xuống và tôi thiếp ngủ,
rồi thức dậy, vì CHÚA đỡ nâng tôi.
(Tv 3, 6)
Người ban lương thực cho tất cả chúng
sinh,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
(Tv 136, 24)
Một
khi nhận ra chính mình được Đức Giê-su yêu thương gìn giữ và nuôi dưỡng, chúng
ta được được mời gọi “chạnh lòng thương” người khác như Đức Giê-su, và diễn tả
tình thương của chúng ta một cách cụ thể, qua việc đáp ứng những nhu cầu liên
quan đến sự sống của con người hôm nay, nhất là những người nghèo đói, bệnh tật
và đau khổ (x. Thông Điệp Laudato Si’
và Kinh Năm Thánh Lòng Thương Xót). Như thế, Đức Giê-su tiếp tục chạnh lòng
thương con người hôm nay ngang qua sự hiện diện và hoạt động của Giáo Hội,
trong đó có từng người chúng ta, vốn là thân thể của Ngài. Tuy nhiên, bối cảnh
của bài Tin Mừng mời gọi chúng ta hiểu sâu hơn và rộng hơn tình thương của Đức
Giê-su, và mời gọi chúng ta vượt qua bình diện nhu cầu chóng qua để mở lòng ra đón
nhận điều mà lòng ước ao của chúng ta hướng tới.
Thật
vậy, khi nghe tin ông Gio-an Tẩy Giả bị trảm quyết, dường như Đức Giê-su cảm
thấy sự sống của chính mình cũng bị đe dọa; chính vì thế, Ngài đã xuống thuyền
đến một nơi hoang vắng riêng biệt. Hơn thế nữa, cái chết của ông Gioan Tẩy Giả
loan báo cuộc Thương Khó của Đức Giê-su (x. bài Tin Mừng thứ bảy, sau Chúa Nhật
XVII Thường Niên: Mt 14, 1-12); và chính khi Ngài hi sinh sự sống của mình trên
Thập Giá:
Ø Ngài
“chạnh lòng thương” loài người chúng ta ở mức độ tuyệt đối nhất, đến độ thánh
Phao-lô nói: “không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa
thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (Rm 8, 39). Loài người chúng ta
không chỉ sống bằng nhu cầu sức khỏe hay lương thực, nhưng nhất là bằng tình
thương nữa, tình thương của nhau và tình thương của Thiên Chúa.
Ø Ngài
không chữa lành bệnh thể lí của chúng ta, vì sức khỏe dù quan trọng nhưng không
bền vững và tuyệt đối. Ngài chữa lành những tổn thương trong tương quan của
chúng ta với Thiên Chúa và với nhau, bằng ơn tha thứ và ơn giải phóng chúng ta
khỏi “mọi sự dữ”.
Ø Ngài
không kéo dài sự sống này của chúng ta, nhưng ban cho chúng ta sự sống đời đời.
Như ngôn sứ Isaia loan báo: “Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi
sẽ được sống. Ta sẽ lập với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, để trọn bề nhân
nghĩa với Đa-vít.” (Is 55, 3)
2. « Chính anh em hãy cho họ ăn »
« Nơi đây hoang vắng và đã muộn rồi ». Chúng ta
có thể dừng lại một chút để đón nhận những gì hình ảnh « nơi hoang
vắng » và « bóng đêm đang đến » cùng với cơn đói gợi ra tâm tâm
trí chúng ta. Mỗi ngày, chúng ta được ăn và ánh sáng cũng trở lại. Nhưng đến
một lúc nào đó, chúng ta không còn ăn được nữa, bóng tối đến và không chịu biến
đi. Lúc ấy, chúng ta còn mong chờ ai ngoài Đức Kitô là ánh sáng và là bánh ban
sự sống đời đời ? Điều này giúp chúng ta hiểu câu nói này của Đức
Giê-su ở mức độ tuyệt đối :
Họ
không cần phải đi đâu cả.
(c.16)
Đức Ki-tô là Đấng hằng sống và là Đấng ban sự sống đang
hiện diện, vì thế, trong cơn đói và trong bóng tối chết người, loài người chúng
ta và từng người chúng ta « không cần phải đi đâu cả » !
Đức
Giê-su, vì lòng thương đám đông, không
nỡ để họ trở về đói bụng, nên muốn cho họ ăn. Có điều là, Chúa muốn cho họ ăn, nhưng Chúa lại biểu các
môn để làm: “Chính anh em hãy cho họ ăn”! Có lẽ, chúng ta cũng đã từng có kinh nghiệm tương tự, ở
bình diện cá
nhân, cộng đoàn hay Hội Dòng: Chúa mời gọi chúng ta làm điều vượt quá sức lực
và khả năng của chúng ta. Trong Tin Mừng theo thánh Mác-cô, các môn đệ nói: “Chúng con phải đi mua tới hai trăm quan tiền bánh mà
cho họ ăn sao?” (Mc 6, 37)
Trước một nhu cầu lớn như thế, các môn đệ nghĩ ngay đến
tiền. Chúa bảo mình làm nhưng lại không cho tiền ! « Tiền » ở
đây có thể được hiểu theo nghĩa rộng là tất cả các phương tiện, tài năng, khả
năng chuyên môn nhằm đáp ứng nhu cầu của người khác cách nhanh chóng và hiệu quả. Nhưng sống tương
quan với Chúa, và nhất là khi cộng tác với sứ mạng của Chúa, nghĩa là làm chứng
cho Tin Mừng qua đời sống gia đình, đời sống tu trì, việc phục vụ, việc tông
đồ, mục vụ…, chúng ta không thể chỉ suy xét trên bình diện phương tiện, nhưng
còn trên bình diện thần nhiệm nữa, như thánh Phaolô đã kinh nghiệm :
« Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát
khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi : Ơn của Thầy đã đủ cho
anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối »
(2Cr 12, 8-9). Sống chiều kích thần nhiệm là kết hợp với Đức Kitô và để sức
sống Phục Sinh của Ngài tỏ hiện ra nơi con người giới hạn, mỏng dòn, yếu đuối
của chúng ta, và nơi những phương tiện hạn hẹp và nghèo nàn của chúng ta. Năm
chiếc bánh và hai con cá diễn tả con người thật của chúng ta.
3.
Năm chiếc bánh và hai con cá
Đức
Giê-su nói: « Đem lại đây cho Thầy ». Như thế, Ngài muốn hành động
khởi đi từ những gì chúng ta có và với những gì chúng ta là; và điều này đòi
hỏi thời gian và cả sự từ bỏ để trao lại cho Chúa tất cả những gì mình có. « 5 chiếc bánh và 2 con cá » tượng trưng cho
con người thật của chúng ta, những gì chúng ta có và những gì chúng ta
là : thật nhỏ bé, thật giới hạn. Tuy nhiên, Đức Giê-su không chê bỏ, nhưng đón nhận với tất cả sự trân trọng,
hơn nữa còn đón nhận như ơn huệ của Chúa Cha.
Chúng
ta hãy dừng lại để nhìn và nghe từng cử chỉ là lời nói của Đức Giêsu :
Người cầm lấy năm cái bánh và hai con
cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ. Và môn
đệ trao cho dân chúng”
(c. 19)
Bánh
đến từ đất trời và công lao của con người: “Lạy Chúa, là Chúa Cả Trời Đất, chúc
tụng Chúa đã rộng ban cho chúng con bánh này, là hoa màu của ruộng đất và công
lao của con Người, chúng con dâng lên Chúa để trở nên Bánh Trường Sinh cho
chúng con”. Và Bánh chưa hóa nhiều, nhưng Đức Giêsu đã tạ ơn rồi; và trước
ngưỡng cửa của cuộc Thương Khó, Đức Giêsu chưa được cứu thoát khỏi sự chết,
Ngài đã tạ ơn rồi, ngang qua Bí tích Thánh Thể, vốn là Bí Tích Tạ ơn. Đó là lời
Tiền Tụng (Hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta – Thật là chính đáng) trước
khi truyền phép trên bánh và rượu, hiện thân của cuộc Thương Khó. Tạ ơn trước
khi dấu lạ xẩy ra, tạ ơn trước khi được Thiên Chúa cho trỗi dậy từ cõi chết,
diễn tả lòng tín thác vào quyền năng Thiên Chúa ở mức độ tận cùng. Chúng ta
được mời gọi tạ ơn hằng ngày, dù còn đang ở trên đường đi đầy thách đố.
Chúng
ta có thể đọc ra nơi phép lạ bánh hóa nhiều ba cấp độ ý nghĩa:
(1)
Bánh lương thực. Bánh ăn hằng ngày đã hóa nhiều thực sự, và trong những
năm thi hành sứ vụ, Đức Giêsu thực hiện 2 lần (theo Tin Mừng Gioan, thì một
lần). Điều này cho thấy, Đức Giêsu đến không để giải quyết nạn đói cho con
người. Vì con người có khả năng lo cho nhau no đủ, nếu biết chia sẻ. Phép lạ là
những « dấu chỉ » của một thực tại khác.
(2)
Bánh Thánh Thể. Bánh Thánh Thể được trao ban cho chúng ta một cách quảng
đại mỗi ngày trong Thánh Lễ ; chúng ta chỉ cần mở tay và mở lòng ra để đón
nhận. Tuy không có sự dư tràn vật chất, nhưng lại có sự « dư tràn »
về ơn huệ sự sống và ngôi vị của Đức Ki-tô. Ngoài ra, phép lạ « Bánh
Lời Chúa » hóa nhiều cũng được Chúa thực hiện cho chúng ta mỗi ngày
trong Thánh Lễ và nhất là khi chúng ta cầu nguyện với Lời Chúa và chia sẻ Lời
Chúa.
(3)
Bánh đời ta. Để đáp lại ơn huệ lương thực hàng ngày và ơn huệ lương thực
trường sinh, chúng ta được mời gọi dâng cho Chúa « tất cả », tất cả
những gì chúng ta có và những gì chúng ta là ; và cái « tất cả »
của chúng ta thì nhỏ bé và giới hạn như « 5 cái bánh và 2 con cá »,
nhưng chúng ta được mời gọi trao vào tay Chúa. Đây là cử chỉ mang chiều kích
Thánh Thể : « năm chiếc bánh và hai con cá », là chính con người
chúng ta, đã trở thành chính Chúa ; tương tự như bánh là « hoa mầu
của ruộng đất và công lao của con người » nhưng được dâng cho Chúa, để trở
thành « Bánh Trường Sinh » nuôi dưỡng chúng ta. Và chúng ta được mời
gọi cộng tác để chia sẻ và trao ban chiếc « bánh đời tôi », đã được
trao vào tay Chúa và Chúa làm cho trở thành chính Chúa, cho nhiều người.
« Năm
chiếc bánh và hai con cá », diễn tả con người thật của chúng ta, nhưng nếu
chúng ta quảng đại trao vào tay Chúa, như là Ngài mời gọi: “Đem lại đây cho
Thầy”, thì trở thành điều kì diệu một cách nhiệm mầu, sẽ trở thành, có thể nói,
“chính Chúa”, như thánh Phao-lô nói: “Anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ
sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh
em thờ phượng Người” (Rm 12, 1).
* * *
Các
môn đệ phân phát bánh, nhưng không còn là bánh của mình nữa, nhưng là từ bàn
tay của Chúa. Chúa không làm cho bánh rơi xuống từ trời ào ào, như xưa Đức Chúa
cho Manna đổ xuống từ trời như mưa rào, nhưng Đức Giêsu làm cho những gì có
sẵn, dù rất nhỏ bé và giới hạn sinh sôi nẩy nở đến vô hạn. Đó lạ dấu lạ cả thể,
nhưng lại được thực hiện ngang qua một hành động rất đỗi bình thường nhưng ý
nghĩa thật lớn lao.
Và kết qua là ai nấy được ăn và được ăn no nê, và dư với
số lượng lớn : 12 thùng bánh đầy. « Dư Tràn » một cách nhưng
không chính là dấu vết của Thiên Chúa (mẻ cá lạ, gấp trăm, 70 lần 7, lòng nhân
hậu của người cha, người gieo giống ra đi gieo giống, 6 chum nước trở thành
rượu ngon, chữa bệnh gắn liền với tha tội, nước hằng sống..). Bởi lẽ, để giải
quyết cơn đói của dân chúng trong hoang địa, không cần bánh nhiều và ngon như
thế ; tương tư như trường hợp phép lạ nước hóa thành rượu. Bánh tiếp tục
được ban cho dân của Chúa, cho từng người chúng ta mỗi ngày, mỗi ngày cách dư
tràn. Bánh diễn tả hồng ân, hồng ân Thiên Chúa được ban ngang qua đất trời và
bàn tay của con người của anh chị em, đó là những bữa ăn hàng ngày ; bánh
diễn tả sự sống đời đời, đó là bánh Thánh Thể ; và cả hai đều diễn tả
chính Chúa, chính Ngôi vị của Chúa. Đấng chúng ta khát khao và chỉ ngài mới làm
chúng ta no thỏa, dư tràn.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc