CHỦ NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN
Chúng ta tin thân xác
loài người ngày sau Sống lại như chúng ta vẫn tuyên xưng trong Kinh Tin Kính. Nếu
Đức Ki tô đã không Sống lại, niềm tin của chúng ta trở nên vô ích. Vấn đề làm
cho con người quan tâm là liệu có một cuộc sống đời sau không, chúng ta sẽ ra
sao ngày mai. Ra sao thì tùy theo ý Thiên Chúa, dù vậy chúng ta tin rằng Thiên
Chúa sẽ phục sinh chúng ta như Người đã phục sinh Chúa Giê su.
Sách 2 Mcb 7, 1-2.9-14
Ma ca bê là quyển sách
đầu tiên nói rõ ràng về sự Phục sinh của những người Công chính. Thật vậy, làm
sao mà tin rằng các CHỨNG NHÂN, hi sinh cuộc sống vì vâng phục lề luật lại có
thể bị loại khỏi Lời hứa khi hoàn tất. Nếu chúng ta đã trung thành , dù gì xảy
ra, chúng ta sẽ được đưa đến sự Sống không bao giờ cùng, vì Thiên Chúa đã cho mọi
sự sống lại trong Đức Ki tô.
Thánh vịnh 16
Tin chắc rằng mình vô
tội, nhưng bị những người ngọai vây hãm và làm nhiều điều dả man, tác giả Thánh
vịnh tìm nơi ẩn náu nơi Thiên Chúa. Ông hi vọng được nhìn ngắm Dung Nhan Chúa.
Thư 2 Th 2,16-3,5
Thánh Phao lô nhấn mạnh
vào ý nghĩa mà Đức tin vào sự trở lại vinh quang của Đức Ki tô mang lại cho cuộc
sống. Cuộc sống đầy hi vọng đang hướng tới điểm đến đó. Bên kia các khó khăn do
các thù địch Đức tin gây ra, Đức Ki tô đang chờ đợi chúng ta.
Tin mừng Lc 20, 27-38
NGỮ CẢNH
Đoạn văn nầy nằm trong
phần giáo huấn của Chúa Giê su trong đền thờ bao gồm bốn cuộc tranh luận giữa
Chúa Giê su và các đối thủ: uy quyền của Chúa Giê su (20,1-8); những người làm
vườn nho sát nhân (20,9-19); nộp thuế cho Xê da (20,20-26); và về sự kẻ chết sống
lại (20,27-40).
TÌM HIỂU
Nhóm Sa đốc: chủ trương gắn bó với
Lề luật và từ chối những khai triển của truyền thống. Vì thế họ không chấp nhận
niềm tin vào sự sống lại. Vì niềm tin nầy tương đối mới đây (x. Đoàn 12,2-3) và
nhất là thường được quan niệm khá mộc mạc: đó là một cuộc sống giống y như đời
sống cũ.
Vợ goá: điều luật nầy buộc người em
phải cưới người vợ goá của anh mình đã chết (Đnl 25,5-10) để bảo đảm nối dõi
tông đường cho một người đàn ông đã chết không có con. Nhưng không chắc là người
ta đã tuân giữ.
Các thiên thần: Chúa Giê su bác bỏ
quan niệm về một cuộc sống mới giống y như cuộc sống cũ. Đặc biệt Ngài nhấn mạnh
về sự bất tử của những người sống lại. Về vấn đề nầy, họ giống như các thiên thần,
vì thế, hôn nhân nhắm mục đích lưu truyền sự sống cũng sẽ trở thành vô ích.
Phao lô cũng bác bỏ một
quan niệm vật chất về sự sống lại: “việc
kẻ chết sống lại cũng vậy: gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì bất diệt;
gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà
trỗi dậy thì mạnh mẽ; gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân
thể có thần khí”(1Cr 15,42-44).
Thiên Chúa: đọan thứ nhất bác bỏ quan
niệm vật chất về sự sống lại và khá dễ hiểu. Đoạn thứ hai (20,37-38) đặt niềm
tin ấy trên nền tảng Kinh Thánh và lí luận có phần tế nhị.
Nếu ông Mô sê gọi
Thiên Chúa của Abraham, Isaac, và Gia cóp là Chúa (Xh 3,6), điều ấy có nghĩa gì
và chứng minh điều gì?
Trước tiên và trên hết,
tước hiệu ấy ám chỉ đến các lời hứa và Giao Ước của Thiên Chúa với các tổ phụ.
Tuy nhiên dựa vào kiểu nói ấy (“Thiên Chúa của Abraham..”) để kết luận rằng những
vị ấy còn sống, đối với chúng ta có vẻ mập mờ.
Thật ra, đây là một
cách quan niệm về Thiên Chúa và các mối tương quan với loài người. Ta có thể
nghĩ về một Thiên Chúa kí kết giao ước với loài người, hứa cho họ một hậu duệ hạnh
phúc, thế rồi lại để cho họ muôn đời bị đặt dưới quyền năng của sự chết sao?
Chính ở điểm đó mà ta cần phải hiểu rằng Thiên Chúa là Thiên Chúa của người sống
chứ không phải của người chết. Lời hứa của Người không chỉ cho các thế hệ tương
lai, nhưng thiết yếu cho những ai mà Người đã hứa ban cho. Bởi đó, những người
nầy phải được sống lại để sống bên kia sự chết mà họ phải trải qua.
Chính Chúa Giê su,
trên con đường đi đến sự chết, đã nói như thế. Ngài tỏ ra tín thác vào Thiên
Chúa của Ngài, vào Thiên Chúa của những người sống. Các ki tô hữu đầu tiên, khi
kể lại câu chuyện nầy, chắc chắn đã nhìn thấy sự sống lại của Chúa Giê su, và
ngang qua đó, sự sống lại của tất cả các tín hữu.
SỨ ĐIỆP
Thiên Chúa của kẻ sống
Trong suốt tháng 11 nầy, chúng ta dành nhiều lời cầu
nguyện cho những người đã qua đời. Chúng ta cũng có thói quen đi viếng nghĩa địa
và dâng thánh lễ cẩu cho những người đã khuất, cho những người trong gia đình
và bà con thân thuộc. Chúng ta cũng cầu nguyện cho thế giới đang đau khổ vì bao
lực, khủng bố và đủ thứ thiên tai mà các phương tiện truyền thông đã cho chúng
ta biết.
Các bài đọc thánh kinh Chủ nhật hôm nay nói về sự
sống lại và sự sống trong Thiên Chúa. Bài đọc thứ nhất mô tả một cảnh tượng
kinh hoàng: một người mẹ và mấy đứa con của bà bị xử tử một cách tàn bạo vì đã
từ chối ăn thịt heo mà luật Mô sê cấm. Động cơ thúc đẩy chính là đức tin vào sự
sống lại. Những chứng nhân cản trường ấy gợi nhớ các vị tử đạo mọi thời đại đã
thà chết hơn là từ bỏ đức tin vào Đức Ki tô. Bài học kiên trì trong đức tin ấy
cũng có giá trị cho ngày hôm nay. Chúng ta đối diện trước thái độ vô thần, thái
độ dửng dưng của thời đại. Đức tin của chúng ta thường bị chế nhạo. Nhưng Chúa
khuyên chúng ta nên đứng vững và dựa vào Người. Người là nền tảng chắc chắn
trên đó chúng ta có thể xây dựng cuộc đời chúng ta, vì không gì có thể tách
chúng ta ra khỏi tình yêu của Người.
Bài tin mừng hôm nay còn đi xa hơn nữa khi mạc khải
rõ ràng hơn về sự sống lại. Không phải tất cả mọi người Do thái đều chấp nhận
niềm tin ấy. Người Pha ri sêu tin chắc chắn vào sự sống lại, trái lại, phái Sa
đu kê ô thì lại từ chối. Những người nầy vừa đặt ra cho Chúa Giê su một câu hỏi
để diễu cợt niềm tin ấy. Chúng ta cám ơn họ vì nhờ họ mà chúng ta có được những
soi sáng quí báu của Chúa Giê su về mạc khải vinh quang của đời sau.
Đối với con người chúng ta, tiếp nhận niềm tin vào
sự bất tử của con người và cuộc sống sau cái chết không phải là điều dễ dàng.
Cái bẫy mà người Sa đu kê ô giăng ra cho Chúa Giê su hơi thô thiển và nhằm mục
tiêu nhạo báng. Một người đàn bà khi còn sống đã trải qua nhiều đời chồng là
anh em với nhau, vậy thì bà sẽ là vợ ai trong cõi đời đời ? Vấn đề của người
Sa đu kê ô là họ tự giam cầm trong lí luận của họ. Thay vì để cho mình được
Thánh kinh chất vấn, thì họ dùng Thánh kinh để chứng minh rằng họ có lí. Các bản
văn Thánh kinh nhằm mục đích giúp chúng ta trở về, thay đổi cái nhìn của chúng
ta về Thiên Chúa, về người khác và về cuộc sống của chúng ta. Chúng ta được mời
gọi mỗi ngày tiến đến với Chúa gần hơn.
Về cuộc sống đời đời, Đức Ki tô mang lại cho chúng
ta một câu trả lời rõ ràng. Chúng ta không được tưởng tượng thế giới mai sau
theo khuôn mẫu thế giới hiện tại, trong đó có chuyện cưới hỏi và chết. Trong thế
gới mà Chúa Giê su gọi là Nước Thiên Chúa, không còn việc dựng vợ gả chồng nữa
và loài người không còn chết nữa. Ngôn ngữ nghèo nàn của chúng ta không thể diễn
tả cuộc sống diệu kì mai sau. Nhưng một điều chắc chắn là thế giới của sự sống
lại không phải là sự tiếp nối thế giới hiện tại mà chúng ta đang sống. Đó là một
thế giới hoàn toàn khác hẳn, khi đó thân xác con người không còn bị ràng buộc bởi
những qui luật thế giới nầy. Tình yêu sẽ còn mãi bên kia sự chết, nhưng sẽ được
thanh luyện.
Tiếp đến Chúa Giê su mạc khải: Thiên Chúa của
Abraham, Isaac và Gia cóp không phải là Thiên Chúa của những kẻ chết mà là
Thiên Chúa của những kẻ sống vì tất cả đều sống nhờ Người. Sự chết không thể
khiến những dấn thân của Thiên Chúa đối với các tổ phụ ngày xưa bị thất bại.
Giao ước của Người có tính cách quyết định và vượt qua sự chết. Đó là một sứ điệp
hi vọng gửi đến chúng ta trong cơn tang tóc. Điều quan trọng là chúng ta không
ngừng tin cậy vào đấng đã nói: « Ta
là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ được sống đời đời ».
Trong những ngày tháng 11 nầy, chúng ta tưởng nhớ
đến tất cả những người quá cố, các nạn nhân chiến tranh. Và chúng ta lắng nghe
Chúa Giê su nói với chúng ta rằng Thiên Chúa của chúng ta là « Thiên Chúa của người sống ». Khi sống
lại, Đức Ki tô mở cho chúng ta một lối đi. Ngài muốn chúng ta chia sẻ sự sung
mãn đời sống và tình yêu của Ngài. Hiện thời, chúng ta đang ở trong thời kì tập
sống đời sống của những người sống lại. Chúng ta đang sống lại khi chúng ta để
cho Chúa Giê su thay đổi tận thâm tâm chúng ta. Hạt mầm đời sống vĩnh cửu mà
chúng ta đã lãnh nhận trong ngày chúng ta chịu phép Rửa cần phải được nẩy mầm,
tăng trưởng và hướng đến sự thành toàn.
Chúng ta tin tưởng hướng về Thiên Chúa của những
người sống. Tình yêu của Người mạnh hơn sự chết. Thánh Thể mà chúng ta cử hành
mỗi Chủ nhật cho chúng ta cơ hội kín múc tận nguồn suối để tiếp sức và nuôi dưỡng
chúng ta bằng tình yêu Thiên Chúa. Vì cuộc sống mới nầy, chúng ta có thể ca ngợi
Thiên Chúa.
ĐÀO SÂU
THIÊN CHÚA CỦA SỰ SỐNG
2 Mcb 7,1-2, 9-14 Bảy anh em can trường tử đạo vì hi vọng sẽ
được sống lại
Tv 17,1, 5-6, 8+15 Lạy Chúa, khi thức giấc, con no thỏa nhìn
chân dung Chúa
2 Tx 2,16-3,5 Thánh Phao lô khuyên hãy kiên trì bền vững
khi chờ đợi ngày của Chúa
Lc 20,27-38 h 20,27, 34-38
Người chết sẽ được sống lại
1. HỎI: Ba
bài đọc liên kết với nhau theo chủ đề nào?
THƯA: THIÊN CHÚA CỦA SỰ SỐNG.
Thiên Chúa Vua cả vũ trụ sẽ cho chúng ta sống lại (Bđ1). Và sống lại rồi chúng ta sẽ được như các Thiên Thần (BTM) Thánh
Phaolô khuyên bảo chúng ta một vài công việc cụ thể phải làm trong khi chờ đợi
ngày Ðức Giêsu Kitô trở lại (Bđ2).
2. HỎI: Đâu là bối cảnh của
bài đọc một?
THƯA: Pa-lết-ti-na lúc bấy giờ
đang vào khoảng năm 165 trước Công Nguyên trải qua thời gian bách hại khủng khiếp
bởi Vua An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê. Vì muốn được tôn thờ là Thần, nên ông bắt người
Do thái phải từ chối đức tin, làm trái với Lề luật Mô sê: như không giữ ngày Sa
bát, dâng hi tế cho các bụt thần, vv. Lòng trung thành đã khiến nhiều người Do
thái tử đạo. Họ thà chết hơn là bất tuân lề luật Thiên Chúa. Lạ lùng thay,
chính trong cuộc bách hại mà họ đã có đức tin vào sự Phục sinh. Họ tin rằng nếu
chết vì trung thành với lề luật Thiên Chúa, thì Người sẽ trung thành ban lại
cho họ sự sống.
3. HỎI: Sách
2 Ma-ca-bê là sách gì?
THƯA: Sách 2 Ma-ca-bê được xếp vào loại sách Sử, được soạn vào khoảng năm 124 trước Công Nguyên. Sách
chép lại cuộc xâm lăng Pa-lết-ti-na của người Hi lạp, cuộc bách hại dữ dằn của
vua An-ti-ô-khô, và cuộc chiến đấu dũng cảm của người Do thái để bảo vệ đức
tin.
4. HỎI: Nội
dung bài đọc một như thế nào?
THƯA: Bài đọc
một trích từ sách 2 Ma-ca-bê
(2 Mcb 7,1-2.9-14) tường
thuật hình phạt và cái chết dũng cảm của bẩy anh em người Do thái trong cuộc
bách hại của vua Hi lạp. Nhờ lòng tin vào Thiên Chúa và tin có đời sau nên họ
đã can đảm chấp nhận cực hình và cái chết chứng nhân.
5. HỎI: Tại sao ‘kẻ chết sống
lại’ là một mặc khải lớn trong Kinh thánh?
THƯA: Gần như đó là khẳng định đầu
tiên về niềm tin ấy trong Kinh Thánh. Từ trước đến giờ, người ta tương đối ít
nói về thời gian sau-cái-chết, dành phần lớn quan tâm cho cuộc sống đời nầy, và
mối liên hệ sống ở trần gian giữa Thiên Chúa và dân Người, tức là Giao Ước. Người
ta quan tâm đến cái ngày nay, ngày mai của toàn dân, chứ không phải của cá
nhân. Sau khi chết, thân xác sẽ được đặt trong nấm mồ để ‘an nghỉ với tổ tiên’.
Bấy giờ, con người chỉ còn là một bóng mờ trong cõi âm đầy im lặng, bóng tối,
lãng quên và an nghỉ.
6. HỎI: Niềm tin vào sự sống
lại tiến triển như thế nào?
THƯA: Dần dần được biết rằng
Thiên Chúa là Chủ tể sự sống nên người ta bắt đầu hi vọng một ngày nào đó nhân
loại sẽ được giải thoát khỏi sự chết. Chính tiên tri I-sai-a đã thắp lên niềm
hi vọng đó: ‘Thiên Chúa sẽ cho sự chết biến
mất vĩnh viễn’ (Is 25,8).
7. HỎI: Mạc khải ấy có
tính cách quyết định chưa?
THƯA: Tin vào sự sống lại là một
giai đoạn chính trên con đường khám phá Thiên Chúa, nhưng chỉ là bước đầu mà
thôi, vì chính nó cũng sẽ bị vượt qua.
8. HỎI: Tại sao?
THƯA: Tạm thời, người ta tin chỉ
có những người công chính mới được sống lại mà thôi. Phải chờ nhiều thế kỉ sau
đó được Thiên Chúa dạy dỗ người ta mới tin vào sự sống lại của mọi người đã chết.
Trong kinh Tin kính, chúng ta tuyên xưng: ‘Tôi tin xác loài người ngày sau sẽ sống
lại’.
9. HỎI: Bài đọc 2 (2 Tx 2,16--3,5) có nội dung như
thế nào?
THƯA: Thánh Phaolô
khuyên nhủ tín hữu Tê-xa-lô-ni-ca rằng vì không biết ngày giờ Chúa lại đến, nên
phải luôn nuôi dưỡng niềm hy vọng và mong chờ Chúa đến. Chính niềm hy vọng và sự
mong chờ này sẽ là động lực giúp họ sống tốt.
10. HỎI: Ngữ
cảnh bài Tin mừng (Lc 20,27-38) như thế nào?
THƯA: Tại
Giê-ru-sa-lem (19, 28-40), Chúa Giêsu dạy dỗ trong đền thờ. Nằm trong loạt
tranh luận giữa Chúa Giêsu và các thủ lãnh Do thái giáo tại Giê-ru-sa-lem, về
quyền bính (20,1-8); nộp thuế cho Cêsar (20,20-26); Con của vua Đavít
(20,41-44), đoạn Tin mừng nầy bàn đến vấn đề kẻ chết sống lại (20,27-38). Có 2
ý chính: 1. Vấn nạn của nhóm Xa-đốc (20,27-33). 2. Giáo huấn của Chúa Giê su
(20,28-38).
11. HỎI: Vào thời Chúa Giê
su, niềm tin vào sự Phục sinh như thế nào?
THƯA: Vào thời Chúa Giê su, niềm
tin vào sự sống lại là điều rất mới mẻ, chưa được tất cả mọi người tin theo.
12. HỎI: Nhóm người Xa-đốc
là ai?
THƯA: Họ là những ‘con cáo già của
Xa-đốc’, thuộc chi họ Lê-vi (Êd
40,46). Thuộc giai cấp tư tế, nhưng từ lâu họ không còn giữ đạo Do thái cách
thuần túy: họ chỉ quan tâm đến việc thực hiện các việc phụng tự bên ngoài,
nhưng ít để ý đến các giáo điều về niềm tin tôn giáo. Trong số đó, họ quả quyết
không có sự sống lại, không có thiên thần, không linh hồn bất tử (Cv 23,8).
13. HỎI:
Tại sao người Xa-đốc lại không tin vào sự sống lại?
THƯA: Vì niềm tin ấy không có
trong Lề luật. Vốn là những người chủ
trương trung thành với truyền thống, nên người Xa-đốc không tin vào sự sống lại
là điều hoàn toàn mới mẻ trong niềm tin người Do thái thời ấy.
14. HỎI: Chúa Giê su cho họ
thấy họ sai lầm ở điểm nào?
THƯA:
Chúa Giê su cho họ thấy họ sai lầm ở chỗ tìm kiếm các tín
điều trong các lí luận. Tiên tri I-sai-a đã cảnh báo điều đó từ rất lâu: ‘Tư tưởng của Thiên Chúa không phải là tư tưởng
của chúng ta, và đường lối của Người không phải là đường lối của chúng ta’
(Is 55,8).
15. HỎI: Chúa Giê su đặt
niềm tin trên nền tảng nào?
THƯA: Chúa Giê su luôn đặt niềm
tin của mình trên nền tảng Kinh thánh: cứ mỗi lẩn người ta hỏi Ngài, Ngài luôn
tìm câu trả lời trong Kinh Thánh. Khi bị thử thách hay với hai môn đệ trên đường
Em-mau, điểm qui chiếu duy nhất là Kinh Thánh. Chính từ đó mà Ngài mở trí cho họ
hiểu. Ngài đã trả lời ma quỉ: ‘Con người
không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn bởi lời do miệng Thiên Chúa phán’
(Mt 4,4). Ở đây cũng thế: ‘Các ngươi đừng nuôi dưỡng đức tin của mình bằng lí
luận hay tranh cãi mà bằng Lời Thiên Chúa’.
16. HỎI: Người Xa-đốc cũng
trích dẫn Kinh thánh?
THƯA:
Đúng, họ bắt đầu bằng trích dẫn Mô-sê. Nhưng họ dùng Kinh
Thánh để chứng minh điều mà họ đã xác tín. Họ trích dẫn Kinh Thánh chứ không
tra cứu, tìm hiểu Lời Chúa muốn nói gì. Trái lại, Chúa Giê su tìm trong Kinh
thánh những gì nói về Thiên Chúa.
17. HỎI: Vậy đâu là câu trả
lời của Chúa Giê su?
THƯA: Chúa Giê su dựa vào đoạn
sách Xuất hành 3, Thiên Chúa đã mạc khải cho ông Mô-sê với tư cách là Thiên
Chúa của Áp-ra-ham của I-sa-ac của Gia cóp. Thiên Chúa không thể là Thiên Chúa
chỉ trong một khoảng thời gian nào đó. Sự chết không thể làm cho những dấn thân
của Người trở nên thất bại. Giao Ước của Ngài vượt qua cái chết: Ngài nối kết với
từng người chúng ta và với tất cả trong một tương quan tình yêu mà không gì có
thể phá hủy được.
18. HỎI: Người Xa-đốc còn
mắc sai lầm nào nữa không?
THƯA: Có. Sai lầm của họ là nói
về sự sống lại, về cuộc sống bên kia như là tiếp tục cuộc sống trần gian.
19. HỎI: Chúa Giê su đã trả
lời họ như thế nào?
THƯA: Có một đoạn tuyệt hoàn
toàn giữa cuộc sống hiện tại của chúng ta và cuộc sống của những người sống lại:
ở đời nầy người ta lấy vợ lấy chồng, nhưng những kẻ sống lại thì không bận tâm
về chuyện ấy nữa. Họ giống như các thiên thần, vì họ không còn chết nữa. Từ
nay, họ là con Thiên Chúa nghĩa là những người sống bằng sự sống của Thiên
Chúa.
20. HỎI: Phản ứng của các
thính giả Chúa Giê su như thế nào?
THƯA: Người Xa-đốc thì sượng mặt
vì lập luận của Chúa Giê su nhưng các Kí lục thì hớn hở ủng hộ Ngài. Họ thán phục
sự khôn ngoan của Ngài chống lại người Xa-đốc và minh chứng được niềm tin vào sự
sống lại mà họ vẫn chia sẻ.
21. HỎI: Bài
Tin mừng cho chúng ta thấy dung mạo của Chúa Giê su như thế nào?
THƯA: Qua bài Tin mừng (Lc
20,27-38), chúng ta khám ra nơi Chúa Giê-su Ki-tô hình ảnh một Đấng Cứu
độ tuyệt vời. Ngài đã nhẫn nại chịu đựng dã tâm của người Xa-đốc để cứu độ họ.
Họ đến với Ngài để bắt bẻ Ngài, thì Ngài ân cần diễn giải cho họ chân lí Thánh
Kinh. Họ chỉ quan tâm đến chuyện mặt đất thì Ngài nâng họ lên để thấy chuyện
trên cao. Họ chỉ nhìn thấy chuyện trước mắt thì Ngài giúp họ nhìn thấy xa hơn,
thấy Thiên Chúa là Đấng hằng sống và là Chúa của kẻ sống.
22. HỎI: Thực thi sứ điệp Lời Chúa như thế nào?
THƯA: 1.
Xác tín hơn về lòng Thiên Chúa xót thương mọi người, nhất là những kẻ có tội,
chỉ mong tội nhân ăn năn hối cải để được thứ tha và ở kề bên Chúa để mau mắn
quay về với Ngài mỗi khi phạm tội.
2.
Hiểu rõ sứ mạng của Chúa Giê-su Ki-tô. Đó là cứu vớt những gì đã mất, là đến với
những người tội lỗi để làm cánh tay nối dài cho Ngài.
GLCG 992. Việc kẻ chết sống lại đã được
Thiên Chúa mạc khải dần dần cho dân Ngài. Niềm hy vọng vào sự sống lại về thân
xác của những người chết đã phổ biến như một hệ luận nội tại của đức tin vào
Thiên Chúa, là Đấng tạo dựng toàn bộ con người, cả hồn cả xác. Đấng tạo dựng
trời đất cũng là Đấng trung tín giữ Giao Ước của Ngài với tổ phụ Abraham và
dòng dõi ông. Chính trong hai viễn tượng [tạo dựng và giao ước] này, niềm tin
vào sự phục sinh bắt đầu được biểu lộ. Trong những cơn thử thách của mình, các
vị Tử Đạo nhà Macabêô đã tuyên xưng: ‘Bởi lẽ chúng tôi chết vì Luật pháp của
Vua vũ trụ, nên Ngài sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời’ (2 Mcb
7,9). ‘Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng
sẽ được Ngài cho sống lại’ (2 Mcb 7,14).