GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2015
BẢN TIN 07
Thưa quý độc giả và quý
tác giả,
Chúng tôi xin gửi đến quý
vị bản tin số 7 với 8 truyện mới được
chọn qua vòng sơ loại.
Trong 95 tác giả dự thi
lần này, có 69 người ghi rõ chức nghiệp. Bên cạnh 19 sinh viên, 4 học sinh cấp
3 và 14 giáo dân trẻ đang đi làm, có 19 chủng sinh,13 tu sĩ trẻ và ứng sinh các
dòng nam và nữ. Tổng cộng có 32 người thánh hiến nam và nữ tham gia dự thi.
Nhiều người trong đó đã được các Bề trên và nhà đào tạo chấp thuận và khuyến
khích. Sự quan tâm này là một tín hiệu đáng mừng và con số những người thánh
hiến dự thi tăng lên càng là tin đáng mừng cho tương lai của văn học Công giáo
Việt Nam. Hy vọng các cuộc thi tiếp tục trong ba năm tới sẽ còn có thêm nhiều
người khác. Và rồi mươi năm nữa, trong hàng ngũ linh mục và nam nữ tu sĩ, số
những người quan tâm đến mục vụ văn hóa sẽ thêm đông, tạo thêm động lực cho
nhiều người sáng tác văn thơ Công giáo.
Kết quả cuộc thi năm nay
sẽ được công bố trong lễ trao giải được tổ chức tại Chủng viện Qui Nhơn tối
Chúa nhật 20-9-2015. Tất cả các tác giả có bài vào chung khảo đều được mời tham
dự ngày họp mặt các tác giả văn thơ Công giáo lần thứ IV, từ chiều 19-9 đến tối
20-9-2015. Chúng tôi sẽ gửi thư mời riêng đến từng người.
Xin mời quý độc giả tiếp
tục theo dõi, đánh giá và tham gia bình chọn qua hai câu hỏi: 1. Theo bạn,
truyện nào xứng đáng đạt giải nhất? 2. Có bao nhiêu người cùng ý kiến như bạn?
Ba độc giả đáp đúng nhất sẽ được tặng quà lưu niệm, đồng thời được hỗ trợ tiền
xe về dự họp mặt trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
Quý độc giả có thể gửi
phiếu bình chọn ngay sau từng đợt bài được giới thiệu. Khi đọc các truyện ở các
đợt tiếp theo, nếu thay đổi ý kiến, có thể gửi phiếu bình chọn mới. Chúng tôi
sẽ tính theo phiếu gởi sau cùng của mỗi người.
Cũng mong quí độc giả nào
phát hiện có truyện dự thi đã sao chép từ một truyện khác, xin gởi thông tin về
cho Ban tổ chức qua email: gopnhattho@yahoo.com – Khi có đầy đủ bằng
chứng xác thực, chúng tôi sẽ loại bài đó và cả những bài khác của cùng tác giả
ra khỏi cuộc thi.
Xin chân thành cám ơn các
trang truyền thông Công giáo đã và đang hỗ trợ truyền bá chương trình này, cám
ơn quý tác giả đã gửi bài tham gia và cám ơn quý độc giả đang quan tâm theo dõi
cuộc thi. Chúc tất cả một Mùa Phục Sinh đầy ơn phước Chúa.
Qui Nhơn, ngày 27-04-2015
Thay lời Ban Tổ chức
Linh mục TRĂNG THẬP TỰ
BÀI DỰ THI
TỰ HÀO LÀ KITÔ HỮU
Trời lem nhem
tối, nó cắp sách rời khỏi trường, một buổi học mệt mỏi vẫn chưa khép lại một
ngày. Nó phóng xe thật nhanh về phòng kịp ăn để đi trực. Ai nấy cũng động lòng
với sinh viên năm 2 ngành y, ban ngày đi học trên trường, tối đến lại phải túc
trực ở bệnh viện, thế mà có mấy nhân viên cảm thông. Nghĩ đến đó nó lại thấy
lạnh cả xương sống. Không biết tối nay nó phải trực với cô điều dưỡng nào? “Cầu
Chúa không phải bà Lan là được. Con sẽ cố gắng làm việc, xin Chúa luôn đồng
hành cùng con”.
Đường phố đã
lên đèn, dòng người tấp nập chen nhau chạy xe nhanh hơn để được về với mái ấm
gia đình sau một ngày làm việc, sinh viên các trường khác thì lác đác vài tốp
chạy bộ, vài tốp la cà quán xá gọi nhau í ới. Nó thấy buồn tủi, nhưng nghĩ đến
cảnh một người được khỏi bệnh ra viện nó lại quyết tâm phấn đấu hơn.
Đạp gần 3km,
cuối cùng nó cũng về đến phòng, mồ hôi ướt đẫm cả áo, xả vội vài gáo nước, ăn
lót bụng chén cơm nguội rồi chuẩn bị đồ đến bệnh viện.
Trời tối mịt,
lòng nó nêm nếp lo sợ, vừa đạp xe vừa lẩm nhẩm: “ Xin Chúa giúp con qua khỏi
đêm nay?”. Rồi lại cười thầm vì nhận ra mình ngốc thật, đi học mà cứ như sắp
bước vào hang cọp vậy. Cuộc đời sinh viên ngành y là thế, có mấy đứa vỗ ngực
cho là mình không sợ đâu, chỉ có đứa may mắn được trực cùng điều dưỡng dễ tính,
hiểu mình thì mới dám lên giọng thôi, có đứa lại phải nghỉ học giữa chừng vì không
chịu nổi áp lực. Nói vậy chứ rồi cũng sẽ qua thôi, nó tự trấn an mình.
Rời khỏi những
dòng suy nghĩ, nó liếc nhìn đồng hồ. “ Ui…chết…chỉ còn 10 phút nữa, đạp nhanh
thôi không được đến trễ. “Mầy mà đến trễ là cả đêm không yên cho mà xem”. Nó cố
lấy hết sức vượt qua cả mấy chiếc xe máy ọt ẹc chở những bốn người của một gia đình nào đó, có
lẽ là đang đi dạo mát. Người nó nóng bừng, hơi thở hổn hển liên hồi. Đáp vào
nhà xe, nó chạy như bay lên phòng hành chính khoa nội – bệnh viện đa khoa X.
Cửa phòng đang đóng, vẫn còn sớm 2 phút, may quá. Nó rón rén kéo nhẹ cánh cửa.
- Đúng giờ quá
nhỉ?- Cái giọng chua chát, khinh khích của bà điều dưỡng Lan, người đàn bà khét tiếng khó chịu, đáng ghét nhất khoa, làm
nó giật thót tim. Vỡ mộng, nó bước thật nhanh vào cúi đầu: “Con chào cô ạ!” để
lấy lòng bà ấy. Không đợi bà ta, nó tiếp lời:
- Tối nay cô
trực một mình sao ạ?
- Ừ. Hôm nay
cô trực một mình.
Da gà nó chực
nổi lên khắp cả người vì câu trả lời mà chưa bao giờ có của bà ấy từ khi nó vào
thực tập ở đây.
- Vô cất đồ đi
ra cô chỉ làm cái này, rồi làm giúp cô.
Da gà nó lại
nổi thêm lần nữa khi lớp lông dựng kia vẫn chưa trở lại trạng thái bình thường.
- Dạ. Con vô
rồi ra ngay ạ.
Thay vội áo
blouse, nó cố nhấc chân nhẹ nhàng. Lòng thấy bất an, ngổn ngang những dòng suy
nghĩ. Sao lạ quá, thường ngày bà ấy toàn chửi bới sao hôm nay lại ăn nói nhỏ
nhẹ thế? Không biết “bom nổ chậm bao giờ nổ đây?”.
- Con lại đây
cô chỉ làm bệnh án rồi làm giùm cô nè. Chiều giờ cô tiêm thuốc nên giờ sợ làm
không kịp.
Nó há hốc
miệng ngạc nhiên, mọi khi bà ấy đều chờ sinh viên lên rồi bắt tiêm hết, đứa nào
chậm chạp là chửi la mà sao nay lại lạ thường thế. Đầu nó quẩn quanh với mớ câu
hỏi chưa có đáp án.
- Cái này con
xem bảng nhiệt độ, huyết áp đo sẵn rồi điền vào theo mẫu này, con đã học rồi
đúng không?- Bà ta vừa nói vừa chỉ tay rất rõ ràng.
- Dạ. Con học
rồi ạ.- Nó ngẩn ngơ trả lời.
Mỗi người một
việc, ngồi hồi lâu không ai nói với ai chỉ chăm chú vào công việc, thỉnh thoảng
nó liếc nhìn bà ta với vẻ mặt khó hiểu.
Có lẽ hôm nay
là Chủ nhật nên phải chốt nhiều sổ sách, nhưng lạ thay đã ba tiếng đồng hồ trôi
qua mà vẫn chưa có bệnh vào, bệnh nhân cũng không ai kêu gì. Tất cả mọi thứ đều
lạ lẫm với nó.
- Con sao thế?
Không kiềm chế
nổi sự tò mò, nó hỏi trong sợ sệt:
- Dạ. Con thấy
hôm nay lạ quá cô à? Cả cô cũng thấy lạ. Hi…con…không có ý gì đâu ạ…chỉ là…
- Hôm nay là
Chúa nhật mà con.
Câu trả lời
dứt dạt đến giật gân, “ Chúa nhật ” phải chăng nó nghe nhầm. Sao bà ấy lại nói
Chúa nhật…ôi khó hiểu quá. Nó cố lấy hết can đảm hỏi tiếp:
- Sao cô lại
biết Chúa nhật? Chẳng phải chỉ có những người Công giáo như con mới biết Chúa
nhật sao?
- Cô là người
Công giáo mà?
- Gì cơ???- Nó
tròn mắt nhìn bà ta với độ ngạc nhiên vượt ngưỡng.
Đón được ý nó
qua vẻ mặt ngơ như nai. Bà ấy bình thản nói:
- Thật ra cô
định cảm ơn con nhưng nói cảm ơn thì không quen, vì trước giờ trong mắt mọi
người cô là một bà phù thủy.Haiz… Đúng là thế rồi.
-
Không…Cô…Con…
- Cô nói sự
thật mà, con không cần biện minh. Nhưng có mấy ai hiểu hết được cuộc sống con
người, vì sức ép gia đình, vì tiền tài, địa vị, vì những đắng cay phải chịu
đựng mà cô trở nên con người khô cằn, cay nghiệt, cáu gắt, khó chịu như thế đó.
Ai cũng vừa sợ vừa ghét. Cũng đã xấp xỉ nửa cuộc đời rồi. Nhưng nhờ có con mà
hôm nay cô mới thấy lòng mình thanh thản đến thế. Chắc con cũng tò mò lắm đúng
không?- Giọng bà ấy trầm ngâm, buồn bã, đôi mắt ngấn lệ. Mắt nó tròn xoe nhìn
bà ta mà lặng người.Gạt đi hàng nước mắt bà ta nói tiếp:
- Cảm ơn con
đã tháo gỡ xiềng xích mà bấy lâu nay cô mang trong người. Thật ra cô cũng là
người Công giáo. Lúc nhỏ rất sốt sắng kinh sách, từ khi ra trường không có việc
làm vì cuộc sống mưu sinh nên cô lơ là việc đến với Chúa. Nhưng không vì thế mà
cô trở nên thế này. Cớ sự là từ khi cô gặp chú, chú là bác sĩ N. Con biết đúng
không? Cả hai yêu nhau thắm thiết, thề sống thề chết bên nhau nhưng trớ trêu
thay gia đình chú không mấy ưa vì cô là người Công giáo, nên không cho cưới
hỏi. Họ bảo: “Nếu muốn cưới thì đạo ai nấy giữ nhưng mọi giấy tờ sau này phải
để “không” vào mục tôn giáo và họ sẽ đưa cô vào làm ở bệnh viện. Tình yêu và
tiền bạc đã làm cô mờ mắt, cũng đắn đo suy nghĩ, cũng khóc thầm nhiều đêm nhưng
rồi lại sập bẫy satan. Đồng ý với điều kiện của họ, cô có một gia đình, lúc đầu
hạnh phúc ngập tràn, vợ chồng thương yêu nhau, đạo cô cô giữ, mỗi Chúa nhật cô
đều đến với Chúa. Thế nhưng, hoa hồng rồi cũng có lúc tàn, chỉ vỏn vẹn được vài
tháng chồng cô đổi tính, không cho cô đến nhà thờ nữa, ngày nào cũng lấy đạo ra
mà nói hành, sống trong cảnh gia đình bội bạc nhưng nào dám ly hôn, cô đành cắn
răng chịu đựng, vì thế mà mỗi khi đến bệnh viện cô lại trút hết mọi bực tức
trong lòng nơi mọi người. Từ đó cô mang tiếng “phù thủy trên môi miệng họ”. Cho
đến hôm nay, mọi thứ đã đi vào quỹ đạo của nó, chú và cô đã được con thức tỉnh.
Nó đờ người nhớ
ra…
***
Cốc. Cốc.
Cốc…Bác ơi. Bệnh nhân cần cấp cứu.
Cốc cốc cốc…
Bác ơi…
- Sinh viên
thực tập mà dám gõ cửa gọi bác sĩ.- Giọng cao ngạo của bác sĩ N làm nó tức tối.
- Dạ bác. Con
xin lỗi nhưng bệnh nhân giường 15, phòng 2 xuất huyết, ộc ra nhiều máu cần cấp
cứu mà cô điều dưỡng không có ở phòng trực, người nhà đang rất lo lắng.
Người đàn ông
nhìn nó với vẻ khinh thường. Chậm rãi nói:
- Không sao,
những trường hợp này bình thường thôi, khoa tiêu hóa thì phải có xuất huyết,
chỉ là biểu hiện của bệnh thôi.
- Nhưng … Bác
ơi…
- Tôi đã nói
không sao.- Lời nói cắt ngang lạnh lùng của một lương y làm nó hụt hẫng.
- Dạ, nhưng
xin bác hãy nhanh lên!- Phản xạ tự nhiên trong tâm lý con người khi thấy người
gặp nguy hiểm nhưng phải chăng là ông ấy đã chai lì vì làm bác sĩ nhiều năm.
- Không được
rồi. Nó chạy nhanh lấy máy đo huyết áp xuống phòng bệnh, huyết áp tụt nhiều,
bệnh nhân mất khá nhiều máu nhưng làm sao bây giờ khi không có chỉ định. Đứng
trước vực thẳm sự sống của một mạng người nó không thể đợi chờ. Mặc kệ tất cả,
“Chúa ơi xin hãy giúp người này, xin cho con biết con phải làm gì bây giờ”.
Ngay trong nháy mắt, nó lấy dịch truyền cắm vào kim luồn đã có sẵn để tăng thể
tích tuần hoàn giúp bệnh nhân tránh rơi vào tình trạng choáng. Chợt nhớ đến bác
sĩ trực lãnh đạo, nó chạy vào phòng bấm số gọi…
- Tại sao chưa
có chỉ định của tôi mà một sinh viên thực tập như cô lại dám làm. Để thế bệnh
nhân không chết nhưng cô làm thế càng nguy hiểm hơn.- Vẫn cái giọng điệu đó.
- Dạ. Dạ con
xin lỗi bác nhưng trường hợp này không như bác nghĩ đâu ạ. Con sợ…nên mới tự ý
xử trí.
- Cô hơn tôi
à?- Thái độ tự cao khiến nó giận dữ.
- Thưa bác,
lương tâm của người Công giáo không cho phép con đứng nhìn người khác đang gặp
nguy hiểm.- Nó nói dõng dạc phát một.
- Cô dạy đời
tôi à? Công với chả giáo!- Giọng điệu mỉa mai làm nó nổi máu điên nhưng bệnh
nhân vẫn còn nguy hiểm nó phải dằn lòng.
- Con sẽ chịu
mọi trách nhiệm sau, còn bây giờ xin bác hãy đến khám và cho chỉ định.
Ông ta thản
nhiên đi đến giường bệnh… và liền giật người hốt hoảng vì tình hình không như
ông ấy chủ quan.
- Xả dịch chảy
nhanh. Rửa dạ dày.
Chị điều dưỡng
trực nghe đâu hì hục chạy lên xử trí cùng.
…30 phút trôi
qua bệnh nhân thoát khỏi nguy hiểm. Nó mệt mỏi ngồi phịch xuống ghế nuôi bệnh,
những lời cảm ơn dồn dập của người nhà khiến lòng nó nhẹ nhõm, vui vẻ và mạnh
mẽ hơn. “Cảm tạ Chúa đã giúp con”.
Đôi chân rã
rời, nó lơ bước lên phòng hành chính.
- Tại sao anh
chị lại vô trách nhiệm như thế? Lương tâm anh chị nằm ở đâu? Nếu bệnh nhân xảy
ra vấn đề gì thì anh chị tính sao? Bệnh viện này sẽ thế nào?- Giọng gắt gỏng
nghiêm khắc phê bình hơi to tiếng của bác sĩ trực lãnh đạo, phó giám đốc bệnh
viện.
- Anh chị phải
cảm ơn vì cô bé thực tập kia đã cứu anh chị đấy. Nếu cô ấy không cắm dịch thì
bệnh nhân đã trụy mạch rồi.
- Anh chị sẽ
chịu trách nhiệm trước lãnh đạo.
- Còn anh N.
Anh phải đích thân xin lỗi cô bé kia vì đã cư xử không đúng. Lúc nãy tôi đã
nghe cả rồi.
Nó không buồn
mở cửa phòng mà ngồi co ro nơi ghế đá, nghĩ về cuộc sống trần gian đầy tội lỗi
này. Chẳng có bụi mà sao nước mắt lại cứ trào ra.
Hôm sau nó
nhận được quà và lời xin lỗi của bác sĩ N: “Cảm ơn con- cô bé Công giáo”. Tin
tức được lan truyền cả bệnh viện.
***
- Thì ra…Bác N
là chồng cô.
- Ừ. Từ hôm ấy
bác không còn cấm cản cô nữa, mà sáng nay còn đích thân đưa cô đến nhà thờ và
xin theo học đạo. Khoảng khắc ấy cô hạnh phúc vô cùng con à. Tất cả là nhờ con,
con đã cứu vợ chồng cô. Tạ ơn Chúa đã tạo ra một người con như con.
Đêm Chúa nhật
thanh bình, lặng lẽ. Không khí trong lành, mát mẻ, nhẹ nhàng hạnh phúc như cành
hồng đón đợi giọt sương mai. Lòng nó miên man trải theo làn gió. Một cảm giác
là lạ lan khắp người nó làm ấm nóng tình yêu Chúa vô bờ. Một ngày Chúa nhật
thật ý nghĩa, nó tự hào mình là Kitô hữu.
LÃO TÀNG
Từ xa, chưa
đến ngõ vào nhà lão Tàng, người ta đã nghe tiếng gõ khi thì cạch cạch, lúc thì
leng keng của dàn hợp âm muỗng, đũa, ly, nồi … Cả xóm của lão ai cũng lắc đầu,
vợ con của lão thì đi lánh nạn ở tận nhà ngoại của mấy đứa nhỏ. Thử hỏi ai chịu
cho nỗi lúc lão say nhè, đụng ai lão cũng chửi, chửi không cần lý do, chửi tuốt
tuồn tuột. Vợ con lão nhiều lần phải hứng chịu cảnh đòn roi, sưng mày vếu mặt
do con ma lưu linh đọa đày, thật tội nghiệp.
Lão chỉ sợ có
mỗi Cha sở và bà Trưởng khu. Khi thấy có Cha sở đến, lão chạy ngay vào buồng
mặc vội cái quần py-gia-ma nhàu nát ra tiếp khách. Cái mặt đỏ gay đầy nhử mắt
của lão trông thật dữ tợn. Cha sở bảo gì lão cứ vâng dạ cho qua. Khi nghe nói lão đã bỏ mùa Phục Sinh 32 năm,
lão nhe hàm răng đầy bựa ra cười trừ và chỉ có một câu được lặp đi lặp lại cách
nhàm chán: “Để rồi con tính!”.
Bà Khu trưởng
rất kiên trì nhưng lắm lúc cũng tỏ ra thất vọng. Bà yêu cầu Cha sở phải có biện
pháp mạnh với lão nhưng mạnh thế nào thì bà chẳng nói ra được. Cha sở bảo đây
là vấn đề mà tự bản thân đương sự phải có nhận thức, tự nguyện quay về với Chúa
dưới sự động viên,cầu nguyện và sự giúp sức của mọi người…
Nghe nói đâu
trước đây, lão có bất đồng ý kiến với ông từ Kha về việc khi hết hồi chuông thứ
ba, chuẩn bị đọc kinh thì phải đốt các đèn nến trên bàn thờ lên. Lão bảo ở nhà
các anh, khi đọc kinh thì phải đốt đèn nến lên cả chứ, có đâu để tối om bàn thờ
như trong chùa bà Đanh vậy. Ông từ Kha cũng chẳng tay vừa, ổng bảo chả có luật
nào bắt phải thế. Khi chuẩn bị lễ thì bọn học trò giúp lễ mới đốt đèn lên mà
thôi. Vụ việc được đưa lên Cha sở, ngài bảo đốt thì tốt mà đợi đến khi làm lễ
đốt luôn cũng được. Lão Tàng không chịu và từ đó lão bỏ nhà thờ, sa vào rượu
chè be bét luôn cho đến giờ. Một lý do thật lãng nhách!
Một hôm, khi
trời đã sáng rõ, cửa nhà lão vẫn im ỉm. Người trong xóm gọi cửa mãi không được,
họ phá cửa vào thì thấy lão đã chết cứng. Cái quạt máy Lifan vẫn còn quay vù
vù. Bà cụ Vũ nhà ở bên cạnh có nghe lúc đầu hôm lão còn ngâm thơ:
“Tám Tàng … vốn
thật … là ta
Làm phách chẳng có … chỉ ưa làm
tàng…
Một bầu rượu với
…cây đàn…
Ta say ta hát … xóm làng
đừng có … cười ta …”
KHI THẬP TỰ NỞ HOA
Trong thần thoại Hy Lạp,
một cô gái tên là Clytie đã yêu thần mặt trời Helios.
Từ đó, cô không làm gì ngoài việc ngồi nhìn ngắm cỗ xe ngựa của thần Heliosđi
qua bầu trời. Sau 9 ngày, cô hoá thân thành một bông hoa hướng dương. Những
người hiểu biết vẫn xem hoa hướng dương là biểu tượng của sự hướng thượng cao
quý.
* * *
Ngôi nhà hai
tầng màu vàng nhạt nằm án ngữ ngay ngã ba. Con đường mới trải bê tông, hai bên
rìa chưa kịp đắp đất. Những bụi tre oằn oại trong gió. Gọi là bụi cho hay chứ
thực ra mỗi bụi chỉ còn độc mấy cây tre cộc, còi cọc cùng đám măng lổng chổng.
Ít tre, con đường thoáng hơn. Đám con gái đi đêm không còn sợ ma nữa.
Gió đầu đông
chợt thổi lạnh nổi da gà. Hòa trở về nhà trong tiếng đêm khe khẽ thở. Nhìn lên
căn phòng tầng hai vẫn sáng ánh điện, bóng dáng cô em gái đang ngồi bên bàn
học. Hòa mở cánh cổng sắt nặng nề. Những chiếc bản lề phát ra tiếng kêu kèn
kẹt. Bà Dư thấy động liền đặt thằng nhỏ chưa đầy mười tháng tuổi xuống giường
chạy ra ngoài.
- Mày đi đâu
mà giờ này mới về, bố mày đi uống rượu về không thấy đâu lại chửi đổng suốt.
- Con đi học
hát với học cử điệu và tập văn nghệ về chứ đi đâu.
- Phải liệu về
sớm chứ!
- Thế bố con
chằng bảo đi đâu thì đi đến mười giờ là phải về. Bây giờ mới chín rưỡi.
- Ừ... thôi kệ
mày!
Bà Dư thở dài
bước vào nhà. Hòa lững thững theo sau. Vào nhà, Hòa thấy ông Nhu đang nằm dài
trên ghế. Ông Nhu có thói xấu cứ đi uống rượu say về là lại chửi bới linh tinh.
Chửi chán, ông mới lăn ra ghế ngủ. Bình thường hàng ngày ông đi từ sáng đến tối
mới về nên nhiều hôm không ăn ở nhà bữa nào. Hàng xóm cũng ít khi gặp, chỉ khi
nào có việc gì quan trọng lắm như cưới xin, lễ tết gì mới thấy ông có mặt.
Nhiều hôm lễ nghỉ, người làng vẫn thấy ông Nhu đánh xe đi làm.
Bước vào phòng
mình, Hòa thấy Hảo đang ngồi nhắn tin. Hòa đến gần giật lấy điện thoại màu đỏ
trên tay Hảo. Đọc qua, Hòa thấy trong điện thoại có dòng tin nhắn viết dở “kun
yo, e nho a nhju lem”. Hoà chưa kịp hiểu. Nhanh như cắt, Hảo lao tới giật mạnh.
Chiếc điện thoại rơi bịch xuống đất. Từng bộ phận bắn ra tung tóe. Hảo chồm đến
bóp cổ Hòa hét: “Sao bà cướp điện thoại của tôi?”. Hòa gạt tay Hảo rồi nói:
“Mày xưng tôi với ai, học không chịu học suốt ngày điện với thoại, mày thích
tao cáo với bố mẹ không?”. Hảo ngồi thụp xuống nền gạch men bong nhoáng vừa
khóc vừa đưa tay lượm các bộ phận của điện thoại.
Hảo là em gái
Hòa. Hảo học lớp chín còn Hòa học lớp mười hai. Từ nhỏ, Hảo nghịch ngợm như con
trai, lớn lên đi học hay gây gổ đánh nhau nên bị nhà trường kỷ luật mấy bận.
Trước kia, khi chưa có thằng cu Quý, ông Nhu tỏ ra rất cay nghiệt với hai chị
em Hòa. Cứ nhìn thấy, ông lại tìm cớ bới móc, mắng nhiếc. Chắc có lẽ, ông bà
nội của Hòa chỉ có mỗi mình ông Nhu là con trai nên áp lực dòng dõi đè nặng lên
ông. Nhưng điều đó ảnh hưởng ít thôi, cái nỗi đau lớn nhất của ông Nhu nằm ở
chỗ cứ đi uống rượu là ông lại bị xếp ngồi mâm của đám không có thằng cu chống
gậy. Có lần đi đám cưới nhà anh em, đang khi chén chú chén anh, tự dưng có tay
xỏ xiên xổ ra câu đối: “Nhà cao cửa rộng con rể ở - Tiền lắm của nhiều cháu
ngoại tiêu”. Ông Nhu tức khí cầm cái bát ném thẳng vào mặt hắn. Cuộc ẩu đả xảy
ra…
Bà Dư không làm
gì nên tội nhưng mười mấy năm phải sống trong sự cay nghiệt của chồng. Chỉ đến
khi thằng cu Quý ra đời, bà mới được giải thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn ấy.
Ngày đầy tháng của con trai, ông Nhu đặt móng nhà mới. Nếu không sinh được
thằng con trai thì không bao giờ ông Nhu xây nhà – ông đã từng thề như vậy. Từ
đó đi đâu uống rượu, ông Nhu cũng phải dương dương tự đắc chém được mấy câu thế
này: “Ruộng sâu, trâu nái, hai gái đầu lòng, Võ Tòng thứ ba”. Về nhà ông cũng
ít chửi vợ con.
…Hoà nghe kể,
ngày còn trẻ, bố mẹ mình tham gia vào công việc nhà Chúa rất nhiệt tình. Mọi
chương trình, hoạt động của giới trẻ hai người đảm trách hết. Thời gian đó, ông
Nhu đứng đầu một ca đoàn hùng mạnh. Cứ vào dịp Noel, trong vở hoạt cảnh Giáng
Sinh, ông Nhu đóng vai Thánh Giuse còn bà Dư vào vai Đức Maria. Hai ông bà đóng
rất đạt. Đạt đến mức trở thành vợchồng thật ngoài đời. Sau đám cưới, hai ông bà
ít dần rồi nghỉ không tham gia hoạt động giới trẻ nữa.
Lúc bé Hòa
được hai tuổi, ông Nhu đi làm phụ xe. Thỉnh thoảng về thăm, ông mua quà và đưa
tiền cho vợ. Đến khi bà Dư sinh bé Hảo thì ông Nhu rất ít về, có thời gian ông
biến mất tăm mấy tháng trời, tiền cũng không thèm gửi về. Người ta đồn rằng ông
Nhu có bồ. Đám lái xe nhiều tiền thằng nào
không dính cờ bạc hay chích hút thì kiểu gì cũng đi ăn “phở”. Người ta thường
bảo phở Hà Nội và Nam Định nổi tiếng không phải vì ngon mà vì ở đó người ta có
thể giúp cho những kẻ “chán cơm thèm phở” thỏa mãn.
Kể từ đó, ông
Nhu sống như người không đạo. Ông không còn đến nhà thờ như trước mà ngồi nhà
xem ti vi với hút thuốc lào vặt. Thi thoảng lễ lớn, ông cũng lên xem chút rồi
lẻn về như kẻ trộm. Thời gian trôi nhanh, mới đó mà đã mười mấy năm, ông Nhu
không xưng tội. Khô khan, nguội lạnh một mình đã đành, đằng này nhiều khi ông
còn gây khó dễ cho vợ con. Bà Dư ngồi cầu nguyện là ông mở nhạc thật to. Hòa đi
nhà thờ về thì kiểu gì ông cũng càu nhàu vài câu. Ổng hay lải nhải, Đạo tại
tâm, đến nhà thờ lắm có mang được gạo về ăn không. Từ một người sốt sắng, ông
Nhu trở thành con người sắt đá. Hay ông giận Chúa? – Bà Dư nghĩ vậy.
Nhiều khi, Hòa
buồn lắm. Đi ra đường gặp người làng Hòa thấy tự ti, thấy mặc cảm. Gia đình
người ta vui vẻ cùng nhau đi Lễ; gia đình mình không có nổi một bữa cơm yêu ấm.
Có ngồi ăn cùng thì dấu ai có người ấy làm, kinh ai có người ấy đọc. Ông Nhu
chẳng bao giờ đến nhà thờ lại còn ngăn cản không cho vợ con đi. Ai gặp ông ta
cũng phải khiếp sợ mà lảng dần rồi tránh xa. Chẳng biết từ khi nào, ông Nhu
nuôi bộ râu dài, đen ngòm, chi chít, san sát quanh miệng trông chẳng khác gì
quỷ. Còn Hảo có vẻ học bố nên sống bất cần. Ai đời cứ tối đến là nó ngồi ệp vào
bàn học. Nhưng ngồi đó, nó không đọc truyện thì lại viết thư vớ vẩn, đã thế dạo
này lại có cái điện thoại nên nhắn tin suốt ngày đêm. Học hành chểnh mảng nên
kỳ nào Hảo cũng chỉ đạt loại trung bình. Cứ khi nào mẹ hay chị nhắc đi nhà thờ
đi Lễ là nó lại kêu, hết đau đầu lại đau bụng rồi chui tọt vào nhà vệ sinh ngồi
trong đó rõ lâu. Riêng bà Dư muốn đi nhà thờ thì phải chờ khi ông Nhu không có
nhà, hoặc khi ông say hoặc hôm nào ông vui vẻ. Bà chẳng biết làm gì hơn, lúc
nào cũng thầm thĩ cầu nguyện. Bà xin cho ông Nhu và con Hảo thay đổi tính nết;
xin cho gia đình bình an và sớm sinh được thằng con trai để nối dõi tông đường.
Nhiều lúc bà thấy mình như sắp đổ gục nhưng tình Chúa nhiệm màu. Cuối cùng Chúa
cũng ban cho bà thằng cu Quý.
Sau khi xây
nhà xong, ông Nhu cùng với ông Cầu mở đại lý tạp hóa trên phố huyện. Ông Cầu
phụ trách mảng bán lẻ và giới thiệu hàng. Còn ông Nhu thì chuyên nhận và giao
hàng cho khách. Ông lái chiếc xe hơn một tấn đi đổ hàng khắpnơi trong huyện.
Mới mở chưa đầy năm nhưng hai ông làm ăn phát đạt lắm. Hàng nhập về đến đâu hết
đến đó. Dân làng đồn rằng, mấy tháng nữa ông Nhu sẽ mở đại lý ngay tại làng.
…Hai tuần nữa,
giáo xứ của Hòa sẽ đón Thánh Giá đại hội giới trẻ. Trong làng, từ người già đến
người trẻ háo hức chờ đợi. Cờ hoa, biểu ngữ được giăng dọc suốt hai bên cổng
nhà thờ. Ca đoàn của Hòa cũng gấp rút học hát và tập cử điệu. Chiều mưa nhẹ,
khi đang chơi bên nhà hàng xóm cùng đám bạn, Hòa thấy Cha xứ đến nhà gặp và nói
chuyện với bố mẹ mình rất lâu. Hòa ngạc nhiên vì từ trước đến nay Cha xứ có khi
nào đến đâu, trừ hôm làm phép nhà. Tối về, Hòa hỏi mẹ. Bà Dư nói Cha xứ đến đề
nghị bố con đưa xe ô tô đi đón Thánh Giá trong dịp tới.
...
Chiếc xe được
trang hoàng lộng lẫy. Xung quanh xe treo băng rôn “Thánh giá nguồn ơn cứu độ”.
Các bạn trẻ trong ca đoàn của Hòa chung vai vác Thánh giá. Dòng người đưa đón
thánh giá đông như trẫy hội. Nhiều cụ bà nhìn cây Thánh giá mà đôi mắt rưng
rưng lệ. Từ trong đám đông có tiếng vọng ra: “Người ta lấy mất Thánh giá Chúa
tôi rồi!”. Các bạn trẻ của hai giáo xứ
chuẩn bị cho chuyến giao lưu đầy hứa hẹn. Con đường trở về miền quê yêu
dấu với những cảnh tượng tuyệt vời đang lơ lửng trong đầu Hoà.
Hai hàng người
xếp dài từ cửa nhà thờ ra tận đường. Thánh giá được đưa lên xe ô tô nhà Hòa.
Mọi người dùng vải đủ màu sắc để giữ cho Thánh giá cân bằng. Sáng nay, bỗng
nhiên trời trở lạnh, mọi người say trong hương vị mùa đông sớm về. Những chiếc
lá cuối thu đang trút dần hơi thở. Người ta dự báo với nhau mùa đông năm nay sẽ
rất lạnh. Cánh giới trẻ thì thầm to nhỏ, bảo nhau cố phải kiếm lấy cái chăn ba
bảy độ để ủ ấm trái tim. Hai Cha xứ bắt tay và chào nhau.
Mọi việc xong
xuôi, người ta mới thấy ông Nhu từ đâu xuất hiện. Hai ngón tay trỏ và giữa vàng khè kẹp chặt điếu thuốc. Lâu
lắm rồi, hôm nay Hòa mới thấy bố mình mặc áo sơ mi cùng chiếc quần âu, râu ria
cạo sạch.
Ông Nhu không
nói không rằng, lạnh lùng bước lên xe. Ông đưa tay tra chìa vào ổ rồi khởi
động. Lạ thay, chiếc xe không có động tĩnh gì. Làm đủ mọi cách, chiếc xe vẫn
bất động. Mọi người xung quanh sững sờ không hiểu điều gì đang xảy ra. Ông Nhu
tái mét mặt. Ông ngồi thừ ra ghế. Ông quản chạy đến gõ cửa. Ông Nhu giật mình.
Ông cố gắng khởi động nhưng mọi nỗ lực đều bất thành. Ông bước xuống khỏi xe
như kẻ mất hồn. Chưa bao giờ, người ta thấy ông Nhu rơi vào trạng thái này.
Chính ông Nhu cũng không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Từ ngày làm cái nghề này
có bao giờ ông gặp chuyện tương tự như thế đâu. Rõ ràng sáng nay, chiếc xe vẫn
chạy ngon lành. Kiểm tra kỹ càng mọi thứ, ông Nhu không thấy có vấn đề gì trục
trặc.
Mọi người có
mặt ở đó cảm thấy lo lắng. Không ai nói với ai một điều gì cả. Bầu khí trở nên
ngột ngạt. Trong thời khắc ấy, Cha xứ bỗng xướng lên: “Thánh giá nguồn ơn cứu
độ”. Mọi người cùng hô vang…
Một lần nữa, ông Nhu mở cửa bước lên xe. Lần
này ông không tra chìa khóa vào ổ luôn mà ngồi dựa lưng vào ghế, đôi mắt lim
dim để trấn tĩnh tâm can. Thấy mọi người đọc, ông Nhu cũng lẩm nhẩm đọc theo
một cách vô thức. Lạ kỳ thay, vừa đọc xong ba lượt “Thánh giá nguồn ơn cứu độ”,
bỗng có tiếng lạch cạch rồi chiếc xe nổ máy. Chưa kịp định hình xem chuyện gì
xảy ra nhưng với phản xạ nhà nghề, ông Nhu liền đạp chân vào phanh và côn xe.
Chiếc xe rú lên tiếng ghê rợn. Ông Nhu đưa tay đẩy cần số. Chân phải nhẹ nhàng
nhấn ga. Tay bấm còi và điều khiển chiếc xe. Cộng đoàn thở phào nhẹ nhõm.
Ông Nhu điều
khiển chiếc xe cung nghinh Thánh giá chạy bon bon trên đường. Phía trước là xe
hơi chở các Cha, theo sau là xe buýt chở các bạn trẻ. Con đường mới trải nhựa
trông hệt như dải lụa vắt qua những cánh đồng. Cánh đồng vừa mới thu hoạch
xong, gốc rạ đứng chỏng chơ, lất phất trong gió. Những thửa đất cao ít nước, người
dân trong vùng trồng hướng dương. Những bông hoa vàng óng sắp trổ hạt khẽ đưa
mình trong cơn gió se lạnh. Măt trời như
đứa trẻ con chập chững đi, cố ló đầu ra khỏi đám mây bạc. Những bông hoa
hướng dương thẹn thùng đưa mắt lên nhìn. Dường như, cơn gió lạnh lùng chưa đủ
sức cám dỗ những bông hoa mang tâm hồn hướng thượng.
Vừa ngắm cánh
đồng, vừa lái xe, ông Nhu miên man phả khói thuốc. Ông đưa ra những giả thuyết
về chuyện chiếc xe tự động nổ máy. Chợt nhìn xuống, ổ khóa không có chìa. Thật
khó hiểu! Ông Nhu đưa tay vào túi quần rút ra chùm chìa khóa, không thấy chìa
khóa xe ô tô đâu. Ông hoang mang, thò hết bên này lại ngó sang bên kia cũng
chẳng thấy bóng dáng chiếc chìa khoá cần tìm. Chiếc xe không chìa khoá bon bon
chạy. Ổ khóa vẫn chỉ vào chữ “OFF”. Ông Nhu trấn an mình: “Chuyện này chẳng có
thần thánh hay ma quỷ gì hết chắc là do xe có gì trục trặc”. Suy nghĩ miên man.
Ông Nhu đưa mắt nhìn ra ngoài... Trời! Chiếc gương chiếu hậu rịa thành từng ô
nhỏ. Trong gương là hình ảnh một người đàn ông
bị treo trên thập giá; quanh đầu đội mạo gai. Từ năm vết thương chính
trên cơ thể, dòng máu đỏ rực chảy ra quện vào nhìn như năm bông hoa hướng
dương. Trong giây phút cực khổ ấy, người đàn ông vẫn hướng đôi mắt về xa xăm.
Bên dưới cây thập tự, người phụ nữ mặc áo trắng ngước mắt nhìn, dòng lệ đang
tuôn chảy như con suối xa nguồn… Trong khoảnh khắc ấy, ông Nhu kêu lên: “Giê
su! Lạy Chúa tôi!”…
…Một chiếc xe
container chạy ngược chiều vượt xe tải cùng chiều lao thẳng tới xe ông Nhu.
Nhanh thoăn thoắt, ông Nhu đánh lái sang phải. Chiếc xe sa xuống mương thoát
nước, táp vào một lùm cây thoát nạn. Mất thăng bằng, xe nghiêng hẳn về một bên.
Nhưng chuyện lạ xảy ra, cây Thánh giá đáng lẽ phải nghiêng theo xe nhưng đằng
này lại đứng thẳng như có người giữ. Ai nấy đều trợn tròn mắt ngạc nhiên. Có
người quỳ xuống bái lạy.
Lát sau, ông
trùm đứng dậy mở cửa ca bin. Ông Nhu mặt mũi tái mét nhưng tuyệt nhiên không có
một vết thương nào. Hòa chứng kiến cảnh tượng đó thì gào khóc nức nở. Nó tưởng
bố nó đã chết. Chỉ khi mọi người bảo, ông Nhu vẫn bình thường thì Hòa mới thở
phào nhẹ nhõm. Sau khi trấn tĩnh lại, ông Nhu bảo mọi người lên xe để về cho
kịp.
Sau bao khó
nhọc, phái đoàn đón Thánh giá đã về đến nhà thờ giáo xứ. Dọc hai bên đường mọi
người cầm cờ cầm hoa để đón chào Thánh giá Chúa. Cộng đoàn hát vang lời ca:
“Niềm tự hào của tôi là Thánh giá Chúa tôi. Niềm tự hào của tôi là…”.
…Không nói với
ai lời nào, ông Nhu lặng lẽ đi vào tòa giải tội. Trên cây Thập Tự, năm bông hoa
hướng dương nở tươi hướng về phía mặt trời. Ông Nhu biết mình đang nói chuyện
với ai.
LỜI KINH MÂN CÔI
Cha ngồi bên ô
cửa sổ nghe gió ngoài đồng thổi về xào xạc. Trong gió nghe rõ mùi thơm của rạ,
mùi của cỏ khô. Cha đốt điếu thuốc, rít một hơi, đưa mắt trông về phía cánh
đồng, nơi những căn nhà của Đồng bào. Trong
ngôi làng nhỏ ấy, có gia đình vợ chồng A Khả. Ngày đầu tiên về nhận xứ, cha đã nghĩ về gia đình A Khả, nghĩ
nhiều lắm. Giờ là đêm cuối cùng ở giáo xứ, gia đình A Khả lại làm cha âu lo.
Ra trường, cha
nhận bài sai về một giáo xứ miền quê nghèo, nằm heo hút dưới chân núi, khoảng
vài đôi ba chục gia đình người Kinh sống quanh nhà thờ, họ là gia đình Công
giáo nghèo, mới ăn buổi hôm đã lo gạo buổi mai. Cách nhà xứ một cánh đồng lúa
vàng là làng Đồng bào, họ nghèo. Khi trao bài sai, Giám mục dặn rõ từng lời
một:
- Cha cố gắng
làm cho người Đồng bào biết Chúa Kitô!
Với nhiệt
huyết và năng động của tuổi trẻ, cha đáp như một phản xạ tự nhiên:
- Dạ, thưa Đức
Cha, con sẽ cố gắng. - Đáp xong mà thấy nhiệm vụ khó quá, khó với sức mình, với
một linh mục mới ra trường thiếu kinh nghiệm truyền giáo.
Buổi sáng nhận
xứ, buổi chiều cha đạp một vòng quanh làng đồng bào, thấy một gia đình ngộ ngộ.
Bà vợ có nước da không đen như người đồng bào, cũng không trắng như người Kinh,
lấm lem mồ hôi đang tất tả cuốc đất, còn chồng lượm cỏ, vun vồng trồng mướp
(cái giàn đã lên sẵn trước khi vun vồng), hai thằng con ngồi bên bệ cửa học
đánh vần. Đây cũng là gia đình duy nhất trong làng có hai đứa con ngồi học chữ
mà cha thấy được. Thấy cha đi qua, cả nhà xúm lại nhìn cha. Cha mỉm cười chào,
cả nhà lập bập chào lại. Trong âm thanh nghe cả tiếng Việt, tiếng đồng bào lẫn
lộn. Cha nghĩ thầm: “Bắt đầu từ gia đình này”. Lúc cha nghĩ vậy cũng là lúc cha
cảm thấy khó, khó vì không biết làm cách nào để người ta theo đạo.
Những chiều
khi mặt trời núp sau dãy núi, khi đồng bào thôi việc nương đồng, cha dạo xuống
làng. Cha gởi nụ cười, gởi cái cúi đầu, gởi lời chào tới những
người gặp trên đường đi. Dần dần, người ta biết đó là ông cha ở trên nhà
thờ. Chiều nào cha cũng ghé thăm trò chuyện với gia đình A Khả. Rồi gia đình A
Khả được rửa tội, một vài gia đình đồng bào cũng được rửa tôi. A Khả trở thành
trưởng giáo khu của làng. A Khả trở thành người thân của cha. Lúc nào buồn cha
xuống làng trò chuyện với A Khả, với con A Khả, muốn biết thế sự trong làng cha
cũng tìm gặp A Khả. A Khả cũng luôn gặp cha những khi có khó khăn, chuyện gia
đình, chuyện của đồng bào A Khả đều tâm sự với cha. Mỗi lần đi phố về cha luôn
mang về một thứ gì đó cho con A Khả, lúc thì bị bánh, lúc thì khẩu súng nước,
lúc thì cái chong chóng gió. A Khả cũng mang lên cho cha lúc thì con trê đồng,
lúc thì con gà rừng... nói cha ăn cho biết vị đồng quê. Cha dạy A Khả sống đạo,
dạy A Khả dạy con, dạy con A Khả học, dạy cho A Khả biết lo cho tương lai, dạy
A Khả biết dành dụm. A Khả chăm làm hơn, không như hồi trước làm một ngày nghĩ
ba ngày, khi nào hết cái ăn là đi làm lại. A Khả biết tích lũy cho tương lai,
không còn cái kiểu “làm đồng nào xào đồng nấy”. A Khả khoe với cha số tiền dành
dụm được, cha bảo A Khả mua thêm đôi bò
để sinh lời sau này có đồng tiền mà xây nhà, mà lo cho con học hành... A Khả có
thêm hai đôi bò, đã khá hơn những người khác. Cha bảo A Khả giàu lên là nhờ
theo đạo, nhờ Chúa thương ban cho A Khả. A Khả tin điều cha nói, tin Chúa đã
ban của cho A Khả vì A Khả hay đi lễ, vì A Khả sống đạo như cha dạy.
Giám mục báo
tin cho cha phải chuẩn bị thu xếp đồ để đi du học. Bài sai lần này ra như hơi
gấp gáp. Cha đi ba tháng sau mới có cha mới về, nhà thờ sẽ không có thánh lễ
hằng ngày nhưng mỗi Chúa Nhật có cha nhà thờ dưới thị xã làm quản nhiệm sẽ dâng
thánh lễ. Thời gian ở chưa bao lâu thì phải rời xứ, cha không buồn lắm, cũng
thấy vui vui vì cũng đã rửa tội cho gần chục gia đình đồng bào, vì con chiên
của mình đã trưởng thành, biết sống đạo, biết tin vào Chúa.
Một buổi tối
của những ngày cuối vụ mùa thu hoạch, cha đang loay hoay thu xếp những vật dụng
để rời xứ thì A Khả hốt hoảng chạy vào nhà xứ, nước mắt đầm đìa, A Khả nói:
- Thưa cha,
mất hết rồi.
- Mất cái gì?
- Cha thư thả bỏ chồng sách cuối cùng vào thùng không buồn ngước mặt lên.
- Mất đôi bò,
cha à.
- Sao mất! -
Cha hốt hoảng lên theo lời A Khả.
- Sáng nay,
khi ra chuồng lùa bò ra đồng thì không thấy hai con bò đực đâu hết, chỉ thấy
hai con bò cái không à. - A Khả thút thít, đưa tay quẹt nước mắt.
- Vậy A Khả đi
tìm chưa, nó sẩy dây, rồi đi lạc đâu đó.
- Không đâu
cha, A Khả và vợ đã đi tìm cả ngày nay rồi mà không có, người ta nói đã bị
người Kinh dắt đi làm thịt rồi. A Khả bắt đền cha, bắt đền Chúa.
Thỉnh thoảng
trong làng cũng hay mất trộm, mất con gà, con vịt, con chó..., nhưng chưa ai
mất lớn như vợ chồng A Khả. Tưởng như đã yên lòng ra đi, cha đã dạy cho A Khả
tin vào Chúa, mọi sự là do Chúa ban và Chúa không để A Khả nghèo, không để A
Khả thiệt thân. Nhưng giờ gia đình A Khả ra thế này. Cha biết giải thích, biết
khuyên bảo thế nào cho A Khả đây. Người Đồng bào đâu có kiểu vòng vo, thấy sao
hiểu vậy... Ngập ngừng hồi lâu rồi cha bảo:
- A Khả cứ về
tìm thêm đi, để thêm vài ngày nữa xem sao.
- Tìm không ra
đâu cha à! Hay là A Khả đi xem thầy, người ta chỉ cho A Khả vậy đó.
- Không được,
xem thầy là có tội mê tín - Đôi mắt cha nhìn về A Khả như sự trách móc. - A Khả
hãy về đi, để cha nghĩ cách đã.
Cha nhìn lên
tờ lịch, chỉ còn một ngày nữa, mai là rời xứ rồi. Từ ngoài sân, bóng dáng A Khả
tiến lại gần cha:
- Cha cho A
Khả đi xem thầy nghe! Chúa không chỉ cho cha biết ai đã lấy đôi bò của A Khả
thì A Khả nhờ thầy bói xem, thầy bói xem đúng lắm cha à.
- A Khả nghe
cha nè, A Khả không đựơc đi xem thầy, xem thầy cũng đâu có bằng chứng để đòi
lại, có ai xem thầy mà đòi được của bị mất chưa?
- Dạ, chưa - A
Khả lắp bắp đáp.
- A Khả đi xem
thầy là có tội với Chúa, Chúa buồn lắm đó, cha cũng buồn. Mai cha đi rồi, cha
đi, cha thương A Khả lắm. Xa A Khả cha buồn lắm, A Khả đừng có đi xem thầy
nghe.
Nghe cha nói A
Khả khóc, nước mắt A Khả chảy dài, mắt cha cũng thấy cay cay. A Khả buồn vì mất đôi bò, thêm mất cha, mai là A
Khả xa cha rồi, không còn cha nữa.
v
Cha vẫn ngồi
bên ô cửa, đôi mắt trông về phía cánh đồng. Gió vẫn thổi về từng cơn qua ô cửa.
Có thể cha đi rồi A Khả sẽ đi xem thầy, rồi cũng có thể A Khả bỏ đạo luôn nếu
như không tìm lại được đôi bò. Cha nghĩ mãi mà không có cách nào giúp A Khả
vượt qua khó khăn này, không cách nào để A Khả vẫn tin vào Chúa. Điếu thuốc đã
tắt lịm hồi nào, cha bật lửa châm thêm điếu thuốc nhưng cái hộp đã trống rỗng.
Thở một hơi dài, nghe rõ sự mệt mõi, rồi cha đứng phắt dậy, bước xuống sân. Cha
lấy trong túi tràng hạt, đi một vòng quanh sân dưới ánh sáng mờ nhạt của ngọn
đèn neon trên đỉnh tháp chuông, rồi ngồi xuống trên hàng ghế đá đài Đức Mẹ, cha
thiếp đi hồi nào. Ngồi dưới đài Đức Mẹ đọc kinh nhiều lắm, nhưng chưa đêm nào
cha thiếp đi như vậy. Có lẽ lần này cha mệt mỏi lắm.
Sáng nay rời
giáo xứ, ghé ngang qua nhà A Khả cha bùi ngùi nói:
- Cha đi đây,
A Khả đừng buồn nữa, bữa nào cha sẽ về gặp lại gia đình A Khả.
Khi xe lăn
bánh ra khỏi nhà, cha đưa cho vợ chồng A Khả tràng hạt và vói đầu lại dặn:
- Cha đi rồi,
nhớ lần hạt nghe, phải tin vào Chúa đó. - Cha nói xong mà thấy lòng mông lung.
Tự nhiên thấy mình như sinh con bỏ chợ, đưa người ta vào đạo, rồi khi người ta
chưa thật vững chắc thực hành đạo thì mình lại ra đi, để người ta bơ vơ. Cha đi
rồi chẳng hy vọng gì A Khả giữ đạo.
Cha không còn
nhớ đến A Khả, cha quên những gì ở đất Việt. Quên để nhớ cái mới, nhớ một ngôn
ngữ mới, nhớ bài học mới. Người ta muốn học một ngôn ngữ mới thì phải tẩy hết
những cái cũ trong đầu, nhét chúng vào một xó xỉnh trong bộ nhớ, khi cần chỉ
chạm nhẹ vào kí ức là tất cả hiện ra.
Kì vọng của
Giám Mục, niềm tự hào của Giáo phận đặt nơi cha luôn thôi thúc cha phải nghiên
cứu, dù mệt lả người nhưng không để một giây phút nào trôi đi vô ích. Với Cha
là sách vở, là nghiên cứu.
Hai tiếng đồng
hồ trôi qua mà không đọc hết mọt trang sách, cha cứ thẩn thờ, những ý niệm về
Thiên Chúa cứ quẩn đi quẩn lại, càng nghiên cứu thần học cha càng thấy đức tin
của mình rối bời lên bởi những phẩm tính của Thiên Chúa quá huyền nhiệm. Những
khái niệm về Ba Ngôi sao quá rắc rối, nào là đồng bản thể, đồng bản tính, nào
là giống nhau về bản thể, giống nhau về bản tính... Có thể việc vùi đầu vào
sách vở, cũng có thể do những ý niệm phiêu bạt về Thiên Chúa của các tác giả mà
cha đọc được làm cha vô định, rối bời. Có hôm, đang giữa đêm cha bật dậy, nghĩ
đức tin của mình có đúng không ta? Sao càng lúc càng thấy giống các nhà thần
học lạc giáo, ly giáo, càng nghiên cứu về Thiên Chúa lại có cảm giác xa Thiên
Chúa. Rồi cha thấy mình giống A Khả quá, thấy thông cảm cho A Khả.
Có một trang
sách cha đọc nói rằng, đức tin phải biến thành những lời cầu nguyện chân thật,
hãy bắt đầu làm thần học bằng lời kinh Mân Côi. Bỗng cha giật mình nhận ra bấy
lâu nay cha đâu có đọc kinh Mân Côi. Cha đã không còn giữ thói quen lần hạt mỗi
tối, hễ rãnh là bắt tay vào sách vở, mọi lúc, mọi nơi đều có quyển sách bên
mình. Cha tập lại thói quen đọc kinh Mân Côi mỗi ngày như hồi ở Việt Nam. Mỗi
tối, trước khi đi ngủ, cha dâng mình cho Đức Mẹ bằng một chuỗi Mân Côi.
Mười năm trôi
qua, cha về lại Giáo phận với tấm bằng tiến sĩ thần học. Chiều nay, cha trở về
giáo xứ cũng vào giữa tháng sáu. Mười năm đã có những đổi thay, những trục
đường chính trong làng đã bê-tông-hóa. Nhà cửa cũng khang trang hẳn lên. Cái
gió từ cánh đồng cũng đổi khác, ít mùi thơm của rạ khô và cỏ cháy. Hệ thống
tưới tiêu làm cho cánh đồng màu mở, xanh tươi hơn, trong gió phảng phất mùi
thơm của mạ non. Gặt lúa xong là dẫn nước, rồi gieo hạt liền nên màu xanh của
mạ non và sắc vàng của lúa chín luôn nối tiếp nhau trên cánh đồng. Không ghé
nhà thờ, cha xuống làng đồng bào muốn tìm về một kí ức, muốn xem gia đình A Khả
có khá hơn không, có còn giữ đạo không, mười năm rồi, có thể A Khả bỏ đạo từ
dạo mất đôi bò, cha cũng không chắc nữa, đức tin của cha cũng đã từng bị lung
lay mà.
Cha đứng bần
thần trước mảnh vườn năm xưa của A Khả, trên nền đất nhà A Khả mọc lên một căn
nhà màu vàng nhạt rộng lớn, hàng rào gỗ thấp, bên hông dàn mướp trĩu quả như
năm xưa. Cha ngờ ngợ không biết chủ nhân mới là ai, chẳng lẽ năm xưa mất đôi bò
làm cho A Khả túng thiếu đến nổi bán nhà thế này à. Bước vào, cha gọi mãi không
có người đáp, bên trong nhà im phăng phắc. Dù A Khả đi đâu thì cha cũng phải
biết, nên cha cố chờ để hỏi xem A Khả đã bán nhà đi đâu. Hoàng hôn đã bắt đầu
rớt xuống chân núi, ngoài đường đã văng vẵng tiếng tắc, rì của những đứa trẻ
chăn bò, tiếng cười nói của những người đi làm về. Nghe phía sau nhà có tiếng
nói quen thuộc, cha đứng dậy, bước xuống tam cấp, nhìn về phía sau dàn mướp,
nơi có âm thanh quen vang lên. Cha nhận ra người quen, vợ chồng A Khả nhận ra
cha.
A Khả nói hai
đứa con A Khả đi học đại học rồi, chỉ
còn vợ chồng ở nhà thôi, nhà này A Khả xây hai năm trước, lớn nhất làng, A Khả
xây được nhà vui lắm. Cha hỏi A Khả:
- Thế A Khả
còn giữ đạo không?
- Còn chớ cha
- Vợ A Khả tiếp lời- Nhờ giữ đạo mà xây được nhà đó cha.
Cha cười, hỏi:
- Vậy à, xây
bằng cách nào?
Giọng A Khả
hơi ngậm ngùi:
- Hồi đó mất
đôi bò, thêm cha đi A Khả buồn lắm, A Khả định bỏ nhà thờ. Nhưng thương cha,
nghe lời cha A Khả gắng đi lễ Chúa Nhật, còn ngày thường A Khả và vợ đọc kinh lần hạt theo như cha dạy đó. - A Khả
nói xong chạy vụt vào nhà lấy tràng chuổi đưa lên thủng thẳng. - Đó, tràng
chuổi của cha đó.
- Thế tiền đâu
A Khả xây nhà?
- Nhờ Mẹ ban
cho A Khả đó cha.
- Ban cách
nào?
- Lúc đó A Khả
mất bò đực, chỉ còn hai con bò cái. A Khả cố nuôi để nó đẻ con. Buồn lắm cha,
hai con bò mẹ không chịu đẻ bò đực. A Khả buồn lắm, lần nào nó cũng đẻ bò cái.
Bò cái không ai mua hết, rẻ lắm cha à. A Khả buồn, bán thì rẻ quá nên A Khả giữ
lại nuôi luôn. Thấy bò người ta đẻ bò đực nên A Khả mua bò cái của người ta để
lấy giống. A Khả đọc kinh lần hạt, cầu Đức Mẹ cho bò A Khả đẻ bò đực nhưng nó
cũng không chịu đẻ bò đực. Cả chuồng bò đều là bò cái hết. Rồi bỗng nhiên A Khả
nghe người ta nói dịch cúm gia cầm, rồi dịch heo tai xanh, người ta không cho
ăn thịt heo và thịt gia cầm nữa. Người ta ăn thịt bò. Rồi người ta vào làng mua
bò. Người ta mua bò cái đắt lắm, mua cao gắp ba lần lúc trước, mua bò cái làm
giống để đẻ bò con đó cha. Rồi A Khả bán để lấy tiền xây nhà, lấy tiền cho con
đi học, chỉ chừa lại hai con bò mẹ thôi. A Khả tin Mẹ đã phù hộ cho A Khả.
- A Khả tin
vậy à? - Cha mĩm cười.
- Dạ, A Khả
tin nhờ tràng hạt mà cha đưa cho A Khả.
- Cha cũng nhờ
tràng hạt mà vượt qua khó khăn trở về với A Khả nè.
- Cha về đây, vậy
là nhà thờ có hai ông cha à. - Vẻ mặt của vợ A Khả toát lên sự ngạc nhiên.
- Không, chỉ
ghé thăm vợ chồng A Khả thôi, cha về Chủng Viện dạy các sinh viên.
Cha nghĩ bài
thần học đầu tiên cha sẽ dạy cho các sinh viên Chủng Viện là lòng đạo đức bình
dân với lời kinh Mân Côi. Đó là sức mạnh giúp con người vượt qua những khó khăn
trong cuộc sống và là ánh sáng dẫn lối
cho con người đi tìm Thiên Chúa.
NGƯỜI GÁC CHUÔNG NHÀ THỜ
Ở làng đạo có
âm thanh nào quen thuộc và ấm áp hơn tiếng chuông nhà thờ? Tiếng chuông ai cũng
nghe từ lúc nhỏ, suốt thời ấu thơ, lớn lên và cả về chiều xế bóng. Tiếng chuông
báo hiệu lễ sáng, lễ chiều, báo cho những bà mẹ đưa con đầy tháng tuổi đến nhà
thờ rửa tội, báo tin một người thân quen trong giáo xứ đã qua đời, về thế giới
bên kia, về với Chúa.
Tiếng chuông
nhà thờ cùng báo sinh và báo tử, báo niềm vui và nỗi buồn. Mỗi làng đạo đều có
một ngôi nhà thờ. Mỗi nhà thờ có một tháp chuông. Và mỗi tháp chuông có một ông
từ nghèo khó, siêng năng và lặng lẽ đứng kéo sợi dây chuông để giật lên những
âm thanh vui buồn hay hạnh phúc.
Người gác
chuông nhà thờ gắn đời mình vào gác chuông, không thể đi đâu. Tiếng chuông nhà
thờ ngân vang réo rắt nhưng người gác chuông thì vô cùng thầm lặng. Họ ít được
biết tên và thậm chí bị lãng quên.
Có một người
gác chuông ở một ngôi làng đạo bị lãng quên như thế. Rất ít người biết tên ông,
mọi người gọi ông là “ông Từ”. Ông nhỏ con hơn mức bình thường, có một người vợ
mù cũng nhỏ con và không con cái. Hai vợ chồng già không có nhà. Cha xứ cho họ
một căn phòng cũ nhỏ, trong dãy nhà xứ dạy giáo lý. Họ ở đó, ngày ngày ông đi
kéo chuông. Còn bà thì chống cây gậy đi từ căn phòng nhỏ lên nhà thờ dự lễ, rồi
từ nhà thờ về nhà, không cần ai dẫn dắt. Họ cứ sống như thế.
Trẻ con trong
ngôi làng đạo đánh nhau loạn xạ vì phân biệt “xóm trên” và “xóm dưới”. Xóm trên
là những người khá giả, có ruộng, có tiền, có tầm nhìn cho con đi học nên trẻ
con ở xóm trên phần lớn biết đọc chữ. Xóm dưới là những nhà lao động nghèo,
ruộng vườn bán hết vì nợ, vì nghèo, vì...đánh bạc...Người lớn ở xóm dưới nhiều
người bỏ làng ra đi kiếm miếng ăn ở thành phố lớn, bỏ những đứa trẻ lại với ông
bà già ở nhà. Trẻ con xóm dưới thường không được đi học, nói tục và đánh lộn
giỏi trở thành nỗi ám ảnh của con nít xóm trên.
Rồi cũng tới
tuổi con nít xóm trên và xóm dưới phải đi học rước lễ bao đồng. Xóm trên thì dễ
rồi. Trẻ con biết chữ nên cứ cầm cuốn sách thiên mà đọc thôi. Còn trẻ xóm dưới
thì sao? Một chữ bẻ đôi cũng không biết. Có đứa chưa từng sờ vào một cuốn sách,
làm sao đọc kinh thiên đây?
Rồi lại tức,
rồi lại lao vào đánh lộn. Trẻ xóm dưới đánh xóm trên vì tụi xóm trên kêu xóm
dưới là “đồ không biết chữ”. Nhà thờ lúc nào cũng lùm xùm sau khi lễ tan, một
bầy con nít lao vào đánh nhau, người lớn can ra, bữa sau lại đánh tiếp.
Làm thế nào để
những đứa nhóc không biết chữ vẫn thuộc kinh thiên, giáo lý của Chúa đây? Chẳng
lẽ vì không biết chữ mà để tụi nhỏ không được rước Chúa hay sao? Chúa đến thế
gian này là để yêu thương tất cả mà. Chúa rao giảng Tin Mừng cho mọi người, chứ
có ưu tiên người biết chữ và bỏ qua những người không biết chữ đâu?
Vậy là mấy đứa
nhóc xóm dưới được gom lại, chắc cũng khoảng hơn chục đứa. Những đứa trẻ không biết chữ này được giao
cho...ông Từ nhà thờ. Ông sẽ kêu mấy đứa nhỏ này rung chuông giúp ông ư? Không
phải. Ông lùa tụi nhỏ vào căn phòng nhỏ xíu xiu trong dãy nhà xứ của ông cho bà
vợ mù của ông xử lí.
Một bà cụ mù
ngồi giữa một bầy con nít không biết chữ, lì lợm, không có cha mẹ ở bên vì cha
mẹ tụi nó đa số đi làm ăn xa. Đứa nào đứa nấy tóc vàng hoe, mặt đầy sẹo vì
thường xuyên gây trò đánh nhau, người cũng hôi hám vì lười tắm. Ban đầu đúng là
khủng khiếp. Bọn nhóc thi nhau chọc ghẹo bà. Đứa lấy nồi cơm của bà giấu đi,
đứa lấy cây gậy của bà khèo khèo cái chân bà rồi cười khanh khách. Đứa phá cái
này, đứa phá cái nọ, rồi cãi nhau, đánh nhau, văng tục um sùm.
Cô giáo mà
ngồi giữa đám học trò cá biệt này đảm bảo chạy dài liền. Chỉ có phép mầu của
Chúa mới trị nổi chúng thôi. Mà đây lại là một bà cụ già, đã vậy còn mù nữa,
làm gì để trị chúng bây giờ?
Trị không nổi,
la cũng không xong, bà cụ mù tội nghiệp chỉ biết chịu trận với chúng thôi. Ngày
nào chúng nghịch nhiều bà căng mình ra chịu đựng, ngày nào chúng nghịch ít mà
thầm cảm ơn Chúa trong lòng. Rồi bà bắt đầu dạy cho chúng những câu kinh mà bà
đã thuộc. Bà cũng giống chúng, có biết chữ đâu. Đời bà chưa từng sờ vào một
cuốn sách vì bà mù, lại không biết chữ sờ vào thứ ấy làm gì. Nhưng bà siêng đi
đọc kinh, dự lễ nên cuốn sách kinh thiên hay những bài hát thánh ca nằm gọn
trong đầu bà, không sót một bài nào. Xuân- hạ- thu- đông, mùa nào bà cũng dự
lễ, đọc kinh. Đọc rổn rang, chưa từng quên một câu kinh nào. Giờ bà ngồi giữa
đám nhỏ lì lợm và tội nghiệp, truyền miệng cho chúng những câu kinh.
Ban đầu chẳng
có đứa nào chịu học. Khó quá. Lì quen rồi, giờ học thấy không quen. Nhưng rồi
chúng cũng học. Không thuộc kinh thiên thì không rước lễ bao đồng, đâu có được
xếp hàng rước Chúa? Nên phải ráng thôi.
Tiểu quỷ thì
không thể nào trở thành thiên thần được nhưng cũng có ngày chúng hiền như bầy
cừu. Ngồi xung quanh bà, lặp lại câu kinh bà vừa đọc, lặp lại nhiều lần cho đến
khi nhớ thì thôi. Rồi bà như một cô giáo, gọi hết đứa này tới đứa kia, gọi rất
đúng tên nhờ vào tiếng động quen thuộc chúng phát ra để dò lại bài kinh bà vừa
truyền miệng. Việc thật khó tưởng như không bao giờ làm nổi. Vậy mà bà đã làm.
Ngày nào cũng có một đám tiểu quỷ chui vào căn phòng nhỏ của hai vợ chồng bà,
nghịch hết thứ này tới thứ khác. Nghịch chán lại đến bên bà ngồi, nghe bà đọc
kinh và lặp lại. Bà còn bắt chúng đi đọc kinh, dự lễ cùng với bà. Lúc trước khi
ông Từ chồng bà vội vã đi kéo chuông, thì bà một mình chống cây gậy vào nhà thờ
sớm nhất. Bây giờ bà không đi một mình nữa vì có mấy đứa nhóc bà dạy kinh đến
dắt bà đi. Đứa cầm gậy giúp bà, vẫn nghịch, có khi giấu luôn cây gậy, cười ha hả.
Mấy đứa khác đã chạy tới đỡ bà, dắt bà đi mà không cần gậy. Bà chỉ còn biết
mắng yêu.
Rồi cũng đến
lúc trả kinh thiên để rước lễ, cái nhóm xóm dưới dù thuộc kinh không được trôi
chảy nhưng cũng đã được rước Chúa. Đứa nào đứa nấy mặc áo trắng, hân hoan chạy
tới khoe với hai vợ chồng bà. Tiễn hết lớp này đi, bà lại dạy tiếp lớp mới. Vì
trong làng vẫn còn nhiều đứa trẻ không biết chữ, không thuộc nổi kinh thiên. Bà
kiên nhẫn dạy chúng.
Không ai đếm
bà đã dạy bao nhiêu đứa trẻ không biết chữ trong làng thuộc kinh thiên để rước
Chúa. Cũng không ai nhớ hai vợ chồng người gác chuông đã sống bao lâu ở ngôi
nhà thờ nhỏ? Đều đặn mỗi sáng, hè hay đông, ai cũng nghe tiếng chuông vang lên
thật đúng giờ. Ông cụ thì đi kéo chuông, bà cụ mù thì dạy kinh thiên cho trẻ
nhỏ. Họ cứ sống thầm lặng và đơn sơ như thế.
Một buổi sáng
ông dậy sớm như thường lệ, đi trong đêm tối, rảo quanh nhà thờ để mở các cánh
cửa. Bước tới gác chuông ông vấp phải một cái bọc. Ai đó trong làng đã bỏ một
đứa trẻ trước gác chuông. Ông đã đem đứa nhỏ về cho bà nuôi. Một bà cụ mù, chưa
từng có con, run run đón nhận một đứa bé trong cuộc đời mình. Không thấy mặt
mũi đứa bé, bà sờ từng đường nét trên gương mặt nó. Những đứa nhóc bà dạy giáo
lý rất thích thú khi nhà bà có một đứa nhỏ. Chúng thi nhau giúp bà quấy sữa,
giúp em bé uống sữa rồi bồng bế mỗi khi em bé khóc. Mấy đứa nhóc ngày thường lì
lợm vậy nhưng do ở nhà giữ em nhiều nên cũng rành rẽ công việc chăm sóc trẻ
nhỏ. Hết đứa này đến đứa khác thi nhau ẵm em bé, hát cho em nghe rồi chọc em
cười. Đứa nào bận phải dò kinh thì trao em bé cho đứa khác bế. Vậy mà em bé
cũng lớn, lẫm chẫm đi, rồi lẫm chẫm cười, học nói. Căn phòng nhỏ vui hơn, có
sức sống hơn khi có tiếng cười trẻ nhỏ.
Ông Từ thường
mỉm cười khi đi kéo chuông. Ông nhớ buổi sáng ông ôm đứa bé về nhà. Nhưng ông
nhớ hơn cái buổi sáng ông, bà và lũ trẻ ôm đứa nhỏ đến nhà thờ rửa tội. Ngày
thường ông chỉ kéo chuông cho các bà mẹ trong làng ôm con đến nhà thờ rửa tội
thôi. Lần này ông bước hẳn vào trong, đứng sau lưng bà, vừa làm một người ông,
vừa làm một người cha. Bà cụ mù thì ôm chặt đứa bé vào lòng, rưng rưng khóc khi
cha xứ đổ nước thánh lên đầu nó.
Đứa nhóc hai
ông bà nuôi lớn thật nhanh giống như một cái cây. Ông thầm cảm ơn Chúa khi cho
một đứa nhỏ xuất hiện trong cuộc đời của hai ông bà. Nhưng niềm vui đó của ông
bà không kéo dài mãi mãi. Một buổi chiều khi ông chuẩn bị đi kéo chuông, một
người phụ nữ trong làng đã đến căn phòng nhỏ của hai vợ chồng ông, quỳ sụp xuống,
khóc nức nở. Chị muốn nhận lại con, đứa con vì tình yêu và một lần lỡ dại. Hồi
đó chị sợ nhưng giờ chị gan dạ rồi. Chị cũng đã có tiền để cho con ăn học.
Ông nhìn bà.
Bà đưa đôi mắt mù lòa nhìn vào khoảng không. Biết làm sao được! Con thì phải
theo mẹ ruột của nó chứ? Mình có quyền gì mà bắt nó ở bên. Nước mắt ngắn dài,
bà bịn rịn tiễn nó về nhà mẹ nó. Hai ông bà lại như xưa, lủi thủi trong căn
phòng bé nhỏ. Bây giờ trong làng nhiều đứa trẻ đã biết chữ hơn, ngay cả những
đứa xóm dưới nên lớp học của bà cũng ít học trò học kinh hơn. Thời gian làm mọi
thứ đổi thay. Ông già đi, bà già đi, những đứa trẻ thì lớn lên và tiếng chuông
nhà thờ vẫn réo rắt.
Có ai nhớ đến
ông Từ nhà thờ cho dù ngày nào dân làng cũng nghe tiếng chuông. Công việc kéo
chuông là một công việc vô cùng thầm lặng. Những đứa nhóc học lớp kinh của bà
rồi cũng lớn. Chúng lại bước vào cuộc đời giống cha mẹ chúng: không biết chữ,
không có nghề nghiệp ổn định, phải bỏ làng bỏ xứ kiếm miếng ăn nơi xứ lạ. Lâu
lâu có đứa về thăm ông bà, cho chút quà nhỏ. Nhưng phần lớn chúng quên. Vì kiếm
miếng ăn nơi xứ người cũng vất vả quá rồi. Ai còn nhớ lớp học kinh ngày xưa mà
cô giáo là một bà cụ mù để về thăm cơ chứ?
Một ngày tiếng
chuông nhà thờ bỗng nhiên khang khác ngày thường. Có người nhận ra, có người không.
Hình như nhà thờ đã thay người kéo chuông mới? Có người hỏi, có người không. Ai
kéo chuông thì cũng vậy thôi, có gì quan trọng đâu cơ chứ?
Một buổi chiều
chạng vạng, một chàng thanh niên ghé lại thăm làng, đứng tần ngần trước gác
chuông. Người gác chuông giờ là một người đàn ông trung niên hỏi thăm chàng
trai:
- Cháu ở làng
mình hả? Cháu từ đâu về? Muốn hỏi về ai?- Chú kéo chuông hỏi.
- Cháu hỏi vợ
chồng ông Từ trước kéo chuông ở nhà thờ nè, giờ hai ông bà sống ở đâu hả chú?
- Hai ông bà
mất lâu rồi. Mất bình yên nhưng đám tang nghèo lắm, vì họ không con cái.
- Có nhiều
người dự đám tang ông bà không? Có ai đeo tang không?- Chàng trai hỏi.
- Cũng có
người làng nhưng ít lắm. Có vài đứa hồi đó học kinh ở nhà bà tới lo tang lễ. Có
một đứa đeo tang. À, cái thằng nhóc hồi đó bị bỏ trước gác chuông mà ông bà
nuôi đó. Chính nó đeo tang và lập mộ.
- Dạ.
- Mà cháu là
đứa nào? Còn ở làng mình không?
- Cháu từng
học lớp kinh của ông bà. Giờ ở xa lắm. Ở làng không kiếm nổi miếng ăn nên đi tứ
xứ chú ơi. Thôi cháu ghé nghĩa trang thắp cho ông bà nén nhang. Hôm nay cháu
ghé về làng rồi đi tứ xứ biết bao giờ ghé lại.
Người gác
chuông nhìn chàng thanh niên quẩy chiếc ba lô sau lưng, rồi nhìn đồng hồ để kéo
chuông báo thánh lễ.
Không có ai
trong làng nhận ra tiếng chuông quen hay lạ. Tiếng chuông chỉ là tiếng chuông
thôi. Người trẻ kéo chuông hơi mạnh, người già kéo chuông hơi yếu. Nhưng chuông
vẫn là chuông thôi: ngân vang, réo rắt trong gió khi báo tin vui và da diết,
thê lương khi báo tin buồn.
Nhưng Chúa thì
biết sự khác biệt của những tiếng chuông. Chúa còn biết rõ từng người gác
chuông trên tất cả mọi nhà thờ khác nhau, từ thời này qua thời khác. Chúa không
quên ai dù đó là công việc vô cùng thầm lặng.
Không ai nhớ,
nhưng chắc chắn Chúa luôn nhớ ông Từ già và người vợ mù, người kéo chuông,
người dạy kinh dùm Chúa. Chúa đã ở bên họ, quan sát họ và giúp đỡ họ theo kiểu
của Người. Để rồi cuối đời, có một người đeo tang cho họ và có một chàng thanh
niên không biết chữ ở lớp học kinh ngày xưa về thắp cho họ nén nhang.
Tình nghĩa chỉ
có vậy nhưng ở thế giới bên kia hai vợ chồng họ cũng sẽ thấy ấm lòng.
Người gác chuông
Với cuộc đời thầm lặng
Ai nhớ? Ai quên?
GIỌT NƯỚC MẮT HẠNH PHÚC
Bố và anh vượt
biên khi Sài Gòn nặc mùi thuốc súng. Mẹ chết khi vừa bước chân tới hầm trú ẩn
sau vườn, một viên đạn lạc đã biến Vân Anh trở thành đứa trẻ mồ côi. Sáu tuổi
không cha, không mẹ, không người thân. Vân Anh ngồi ôm xác mẹ khóc, mặc cho
tiếng súng nổ bay mùi khét lẹt. Dòng máu đỏ chảy từ ngực mẹ làm ướt đẫm manh áo
vá chằng vá đụp của Vân Anh. Trời đất như sầu như thảm trước cảnh tượng đứa bé
khóc ngất bên cái xác của mẹ nó. Một bàn tay nhanh nhẹn ôm lấy cái hình hài bé
nhỏ mang đi trong tiếng gào thét nghe muốn xé ruột xé gan. Dì sáu, một Sơ dòng
Mến Thánh Giá đi ngang qua đó, nghe tiếng khóc đã chạy vội vào mang Vân Anh đi
trong tiếng gầm thét của bom đạn.
Tiếng súng
chấm dứt, hòa bình trở lại, cộng đoàn các Sơ nơi Vân Anh ởdi chuyển xuống dưới
tận Củ Chi. Trước khi đi, Vân Anh cũng chỉ kịp theo Dì Sáu ra thắp cho mẹ được một
nén nhang. Gia tài của Vân Anh chỉ là một bức hình nhỏ chụp gia đình.Bảy tuổi,
theo các Sơ xuống vùng Củ Chi, cái tuổi mà bao đứa trẻ cảm thấy hạnh phúc bên
cha bên mẹ thì Vân Anh lại chỉ biết lủi thủi một mình.
Dì sáu mất vì
bạo bệnh, Vân Anh lại chìm vào nổi đau của đứa trẻ mất mẹ lần thứ hai. Tám
tuổi, cái tuổi chưa đủ sức nhớ những gì cần phải nhớ để có thể gặp lại cha và
anh.
Thời gian lặng
lẽ trôi trong cái ký ức đau thương của Vân Anh. Mười lăm năm trời là cả một
quãng những tháng ngày hờn tủi. Đi theo các Sơ bước vào con đường Thánh Hiến
phục vụ trẻ em ngèo khổ, mồ côi, cô đơn và bất hạnh giúp Vân Anh phần nào nguôi
ngoai nổi đau của ký ức. Những lúc rãnh rỗi, ngồi lặng lẽ bên Thánh Thể Chúa,
lật trang Kinh Thánh có kẹp tấm hình gia đình trong đó, nước mắt Vân Anh lại
chảy dài.
Hai mươi ba
tuổi, Vân Anh được diễm phúc tuyên khấn lần đầu. Trong ngày lễ tiên khấn gia
đình người thân của các chị em sum họp đông đủ, chỉ có Vân Anh lặng lẽ trong
cái nhìn xót xa của các Sơ trong cộng đoàn. Vân Anh đứng đó, cố giấu những giọt
lệ chực trào ra trên khóe mắt nhưng sao khó quá, sống mũi cay xè trong nỗi buồn
sâu thẳm. Nụ cười và vòng tay của Mẹ Bề Trên khiến Vân Anh cảm thấy ấm lòng
hơn.
Trong lúc buồn
vui lẫn lộn với tiếng cười nói nhộn nhịp của hàng trăm con người, thì một vị
khách từ xa bước đến bên Vân Anh. Đây là một vị ân nhân lớn của cộng đoàn. Ông
từ bên Mĩ về Việt Nam công tác, nhân tiện nhận lời mời của các Sơ tới tham dự
lễ tiên khấn. Cái bắt tay chúc mừng của ông khiến Vân Anh cảm thấy rất gần gũi.
Ông tự giới thiệu tên là Đại Bình. Vừa nghe hai chữ Đại Bình tim Vân Anh giật
thót lại. Hình bóng người cha nhạt nhòa trong tâm trí lại vội ngập tràn trong
ký ức với cái tên Đại Bình mà cô đã chôn giấu trong trí nhớ suốt mười tám năm
qua.
Vân Anh ngẹn
ngào:
- Ba con cũng
tên là Đại Bình… Nhưng giờ con không biết ba ở đâu nữa!
Vị khách nhìn Vân Anh với con mắt ngỡ ngàng:
- Sơ tên là
gì?- Ông Đại Bình hỏi.
- Dạ, con tên
là Vân Anh.
- Mẹ Sơ tên là
gì?- Ông Đại Bình vội vàng hỏi.
- Dạ... Mẹ con
tên là Vân Sương… Nhưng mẹ con đã mất lâu rồi.
Vừa nghe hai
chữ Vân Sương, ông Đại Bình như giật bắn người, hai tai ông lùng bùng như muôn
vàn tiếng súng đang nổ. Đôi tay run run, ông lấy vội cái ví trong túi quần, mắt
không rời khỏi Vân Anh, dường như ông sợ cô gái trước mắt ông chạy mất. Lấy vội
tấm hình trong ví ra, ông đưa cho Vân Anh:
- Sơ có nhận
ra ai trong tấm hình này không?
Vừa nhìn thấy
tấm hình, Vân Anh như muốn giật lấy ngay trên tay vị khách.
- Dạ thưa bác…
Làm sao bác có được tấm hình này ạ?
Không kịp để cho
ông Đại Bình trả lời, Vân Anh chạy vội ra khỏi bàn tiệc, lao mình về hướng nhà nguyện nhỏ của cộng đoàn, mặc cho
bao con mắt tò mò dõi theo mà không hiểu chuyện gì đang xảy ra.
Ông Đại Bình
đứng ngẩn ngơ ra đó mà không nói được lời nào, linh tính mách bảo cho ông biết,
điều mà suốt mười tám năm nay ông đi tìm giờ đang xảy đến với ông.Ông chưa kịp
trấn tỉnh thì Vân Anh lại chạy vào, trên tay cầm thêm một bức hình khác đưa cho
ông xem. Tuy hai bức hình chụp khác nhau, nhưng những thành viên trong hai tấm
hình chỉ là một. Ông Đại Bình cầm hai bức hình trên tay mà không nói được lời
nào, cổ họng ông nghẹn đắng, nước mắt ông chực trào ra. Không thể nhầm lẫn vào
đâu được nữa, Vân Anh chính là đứa con gái bé bỏng mà ông đã khổ tâm tìm kiếm
suốt mười tám năm qua mà không một chút tin tức, giờ đang đứng trước mặt ông
bằng xương bằng thịt.
Đã bao lần ông
về lại ngôi nhà cũ ở Sài Gòn nhưng không một chút tin tức gì về hai mẹ con Vân
Anh. Không một ai ở đó biết chuyện gì đã xảy ra cho hai mẹ con, vì những người
ở đó đều là người nhập cư mới tới. Ông tưởng như đã hết hy vọng trong nổi đau
tận cùng. Không hiểu vì sao hôm nay, ông lại hủy cuộc hẹn với đối tác làm ăn để
nhận lời mời tham dự lễ khấn của các Sơ. Ông đứng như bất động trước đứa con
gái bé bỏng của ông trong tà áo của một ma sơ, mà nước mắt ông cứ chảy dài.
Vân Anh cũng
đã cảm nhận được nhịp đập của dòng máu phụ tử đang chảy trong huyết quản của
mình.
- Anh trai con
tên là Chí Hải.- Vân Anh nghẹn ngào cất tiếng.
- Nó ở ngoài
kia kìa.- Vừa nói ông Đại Bình vừa nghẹn ngào lau vội giọt nước mắt đang chảy
dài trên khuôn mặt đứa con bé bỏng của ông.
Dòng cảm xúc
tuôn tràn, mặc cho bao ánh mắt ngạc nhiên sửng sốt của mọi người chung quanh,
Vân Anh khóc nức lên:
- Ba…! Ba đi
đâu giờ này mới về với con…hu…hu!
- Nín đi
con…giờ ba về với con đây…!
Chí Hải bước
vào, thân hình cao lớn với khuôn mặt vuông giống cha, đầy vẻ ngạc nhiên trước
những giọt nước mắt của Cha mình.
- Ba… Có
chuyện gì thế?
- Em con
đó..!- Ông Đại Bình trả lời con trai trong tiếng khóc nghẹn ngào.
Sáu con mắt
nhìn nhau không nói nên lời. Họ đứng như vậy trong tiếng chúc mừng cũng như
niềm xúc động của bao người chung quanh. Những giọt nước mắt nóng hổi thi nhau
tuôn chảy trong niềm vui vỡ òa của Vân Anh, của ông Đại Bình và Chí Hải.
Những giọt
nước mắt tủi hờn của Vân Anh chảy dài trong các giờ chầu lặng lẽ bên Thánh Thể
Chúa, giờ được thay vào đó là dòng suối lệ tuôn trào niềm hạnh phúc. Chúa là
Cha giàu lòng từ bi nhân ái, đã không bỏ mặc tiếng khóc than của đứa con bé
bỏng. Ngài lặng lẽ xếp đặt một chương trình. Vào lúc Ngài đón nhận đứa con bé
bỏng của Ngài vào trong vòng tay tình yêu muôn thưở, thì cũng là lúc Ngài đem
đến cho nó cái gọi là gia đình yêu thương.
Xin chúc tụng
danh Chúa đến muôn đời.
TÔI, NÓ VÀ CHÚA
7 giờ ngày
29/6/2010.
Chiếc xe lăn
bánh tiến thẳng lên Sài gòn để chở các bạn trẻ tham dự một cuộc thi vô cùng
quan trọng quyết định cuộc đời mỗi người, trong đó có tôi và nó.
Gia đình nó-
một gia đình bên lương nhưng lại sống giữa xóm đạo của chúng tôi. Đó là một
trong những gia đình có hoàn cảnh khó khăn nên thường được Cha xứ quan tâm,
giúp đỡ.
Ngày thi kề
cận, gia đình nó trong lúc lo ngại về việc lo cho nó mọi thứ: nào là tiền xe,
chỗ ăn, chỗ ở rồi việc đi lại trong lúc thi cử… thì nhận được thông báo từ Cha
xứ gửi tới: Mọi sĩ tử trong khu vực sẽ được lên thành phố bằng xe của nhà xứ,
sẽ đươc sắp xếp chỗ ăn, chỗ ở, chở đi thi miễn phí, không phân biệt lương
giáo.Nghe biết tin này gia đình nó rất vui, ba nó liền dắt nó đến gặp Cha xứ để
đăng kí. Bạn bè cùng trang lứa với nó theo đạo cũng không ít, trong đó có tôi
nên nó cũng không phải sợ lạ lẫm gì.
Gói ghém đồ
đạc chúng tôi tạm biệt mọi người, tạ ơn Chúa rồi cùng lên xe. Trong lúc chúng
tôi dâng lời kinh tạ ơn Chúa và xin Mẹ
ban bình an đi đường, thì nó bẽn lẽn một mình một phương trời, đứng yên, dường
như có chút suy tư gì đó.
Sau 5 tiếng
đồng hồ thì xe chúng tôi cũng đến nơi cần đến,
một dòng chữ thật to hiện lên trước mắt: “ĐIỂM TSMT GX TÂN PHƯỚC”.
Tôi và nó chơi
khá thân nên lúc nào cũng đi với nhau nhưhình với bóng. Cầm thư và giấy giới
thiệu của Cha xứ trên tay chúng tôi tiến vào bên trong xin gặp Cha phụ trách ở
đó.Chúng tôi cũng như các bạn khác đều được Cha và quý anh chị phụ trách ở đó
tiếp đón, hướng dẫn tận tình. Tôi và nó
được sắp xếp chỗ ngủ gần nhau.
Buổi chiều ngày hôm đó có Thánh lễ chào đón và
cầu nguyện cho các sĩ tử chúng tôi. Ai ai cũng tham gia. Nó hỏi tôi: “Tham gia
cái đó để làm gì? Vô đó tao phải làm gì? Tao có biết Thánh lễ với cầu nguyện là
gì đâu?...”. Tôi chỉ cười và nói: “Thì mày cứ đi đi, không mất miếng thịt nào
đâu, với lại lúc đó tất cả mọi người đều tham gia mà!”. Thấy nó trầm ngâm, tôi
nói tiếp: “Mày không muốn đi thì cũng không ai ép nhưng tao chỉ sợ lúc đó mày
bị lạc loài thôi”. Sau một lúc suy nghĩ thì nó cũng chịu đi với tôi nhưng trong
miễn cưỡng.
Trước giờ nó
chưa từng bước vào nhà thờ (vì nó không thích) nên lúc này mọi thứ đều lạ lẫm
với nó. Tính nó hơi loi nhoi một chút
nên khi bước vào nhà thờ tôi đã nói
với nó: “Bớt nhoi chút nghen, nghiêm trang nghen!”.
Suốt trong
thời gian thánh lễ được cử hành thì dường như nó sợ một điều gì đó nên nó rất
biết nghe lời và làm theo tôi. Và tôi cảm thấy sung sướng vì điều đó vì trước
giờ nó có chịu nghe lời ai đâu. Tôi đứng lên trước thì nó đứng lên sau, tôi quỳ
thì nó quỳ, ngồi thì nó ngồi theo. Cứ như đứa trẻ bắt chước những cử chỉ của mẹ
vậy.
Tạ ơn Chúa,
Thánh lễ được cử hành và hoàn thành một cách sốt sắng.
Vừa về tới
phòng thì nó hỏi tôi: “Lúc nãy ông Cha, bà Sơ cầm cái hũ đựng cái bánh gì đem
phát, trông nó có ngon, có hấp dẫn gì đâu mà ai ai cũng hớn hở lên nhận vậy?”.
Tôi: “Hả? À… Đó được gọi là bánh lễ, tượng trưng cho mình-máu Chúa Giêsu, nên
đã là Kitô hữu, khi tham dự Thánh lễ thì ai cũng muốn rước bánh lễ để được Chúa
ngự trong lòng mình”.
- Vậy Giêsu là
ai? Có phải cái ông bị treo trên cây thập giá trong nhà thờ không?
- Đúng rồi.
Giêsu- người là con một của Chúa Cha- một Đấng siêu nhiên. Giêsu, người có hai
bản tính: Thiên Chúa và loài người. Trước tiên người là Thiên Chúa, nhưng vì
loài người đầy tội lỗi nên người đã vâng lời Chúa Cha xuống thế làm người để
cứu chuộc nhân gian. Bằng quyền năng của Chúa Thánh Thần người đã nhập thể
trong lòng Trinh nữ Maria. Là Thiên Chúa nhưng Người sống một cuộc sống khó
nghèo. Năm 30 tuổi thì Người bắt đầu đi rao giảng về nước Thiên Chúa. Đến năm
33 tuổi thì Người bị bọn biệt phái bắt tội và chịu án là đóng đinh trên thập
giá. Ngắn gọn là thế đó.Có tình yêu nào cao hơn tình yêu của người dám chết cho
người mình yêu…
- Thôi thôi…
Mày nói nhiều quá, tao nhức hết cả đầu rồi, để sau đi.
- Ừ, mày đi
ngủ sớm đi, mai còn lên trường nữa. tao đọc kinh xong rồi ngủ sau.
Trong lời kinh
tôi cầu nguyện cho nó vì tôi nghĩ nó không biết cầu nguyyện là gì nên sẽ không
cầu nguyện đâu.
Ba ngày ở
trong giáo xứ, tôi đã cảm nghiệm được tình anh em bốn biển, tình yêu của Thiên
Chúa dành cho mỗi người chúng tôi.
Tạ ơn Chúa vì
muôn ơn lành.
Xong đợt thi
thứ nhất, chúng tôi trở về nhà. Cho đến đợt thi cao đẳng thì nó thi ở quê nên
tôi và nó tạm chia tay nhau.
Các cuộc thi
đã đến hồi kết thúc, lúc nhận được giấy báo từ các trường gửi về, một lầnnữa,
trường của tôi và nó gần nhau nên chúng tôi lại được Cha xứ gửi vào ở chung
trong một lưu xá của quý Sơ cho có bạn có bè.
Suốt ba năm ở
trong lưu xá, tình cảm giữa tôi và nó ngày càng khắn khít, đã thân nay lại càng
thân hơn và tôi đã hiểu nó nhiều hơn. Trải qua nhiều thăng trầm thì lúc nào tôi
và nó cũng bên cạnh nhau. Điều đáng vui mừng hơn là nó đã chịu theo tôi đi lễ,
lí do nó đưa ra là: “Mày đi lễ, ta ở phòng một mình chán lắm”. Và dần dần đi lễ đã trở thành thói quen của
nó, mặc dù nó không có ý muốn theo đạo. Nó bảo: “Cha giảng hay mà Sơ sinh hoạt
cũng thân thiện nữa. tao bị ghiền rồi mày ơi…”.
- Ừ, vậy là
tốt rồi. mày cứ đi lễ là được nghe Cha giảng, sau lễ ở lại là được gặp Sơ thôi.
- Ừ nhỉ, cám
ơn mày nhiều.
Tôi học cao
đẳng nên chỉ mất ba năm, thời gian thấm thoát qua nhanh, tôi đã hoàn thành mọi
thứ, và chuẩn bị xin việc làm ở thành phố. Tôi phải rời xa lưu xá để nhường chỗ
cho các sinh viên mới vào. Chia tay lưu xá, chia tay nó trong sự luyến tiếc,
tôi không muốn tí nào nhưng rồi cũng phải đi.Nó bảo sẽ ra ngoài ở với tôi nhưng
tôi không đồng ý, bảo nó ở lại lưu xá sẽ tốt hơn cho nó. Không có gì phải buồn
vì tôi sẽ ghé thăm nó lúc rảnh rỗi.
May mắn thay,
vừa ra trường thì tôi được nhận vào làm trong một công ty. Như lời đã hứa thì
tôi cũng hay ghé thăm nó, rủ nó đi lễ. Theo lời nó kể thì những lúc không có
tôi nó vẫn đi lễ như lúc trước. Tôi rất vui vì điều đó.Ra đi làm tôi không còn
sốt sắng đi lễ như lúc còn ở lưu xá nữa. và dưởng như nó đã thay thế tôi về
khoản đó.
Một năm tưởng
chừng như dài lắm, lâu lắm nhưng chớp mắt cũng trôi qua. Nó đã tốt nghiệp ra
trường. tôi đi làm, lương tháng cũng không tệ nhưng tôi không tìm thấy được
niềm vui thật sự. Và có cái gì đó thúc bách tôi năng đến nhà thờ hơn, đến gần
với Chúa hơn. Tôi dần hiểu ra ý Chúa nhưng còn mơ hồ lắm. Tôi bắt đầu suy nghĩ
về cuộc sống hiện tại của mình. Tôi cảm thấy không thật sự hạnh phúc với hiện
tại. Tôi muốn tìm kiếm một cái gì đó ẩn nấp bên trong tôi. Và tôi đã tìm hiểu
ơn gọi tu trì.
Khoảng thời gian
đó tôi không gặp nó nhiều, cũng không kể cho nó nghe về suy nghĩ của tôi. Tôi
liên lạc với Dì phụ trách lưu xá để nhờ Dì giúp đỡ.Cùng lúc với tôi, nó cũng
bắt đầu có “dấu hiệu lạ”, nó cũng tìm đến Dì để trình bày những suy nghĩ, tâm
tư của nó và nhờ Dì phân giải giúp nó hiểu rõ hơn.Tôi và nó đều tìm về một
người để nhờ giúp đỡ nhưng cả hai đều không biết gì.
Một hôm Dì gọi
cho tôi, gọi tôi về lưu xá gặp Dì.Ngay lập tức, tôi bỏ việc giữa chừng, đi theo
tiếng gọi con tim về lưu xá gặp Dì. Vừa bước vào phòng, tôi bắt gặp nó đang
ngồi nói chuyện với Dì. Tôi không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Tại sao nó lại ở
đây? Chuyện chỉ có tôi và Dì biết thôi mà…
Khi nó thấy
tôi thì nó cũng bất ngờ. nghe nó kể lại thì lúc đó nó cũng suy nghĩ như tôi
vậy. Ôi! Đúng là ý Chúa.
Tôi và nó lần
lượt trình bày những sưy nghĩ khác lạ và ý muốn khác lạ của mình cho Dì và nghe
Dì phân tích, hướng dẫn chúng tôi tìm ra ý Chúa và hướng chúng tôi dấn thân
theo con đường tận hiếnTôi nhìn nó, nó nhìn tôi với vẻ mặt thật phấn khởi, niềm
vui niềm hạnh phúc thật sự. Tôi thì sẽ không có cản trở gì về gia đình vì gia
đình tôi là đạo gốc, cũng được gọi là gia đình ngoan đạo, mà nếu tôi có được ơn
gọi đi tu thì gia đình tôi sẽ vui mừng hoan hỉ vì điều đó. Còn gia đình nó, một
gia đình bên lương, hoàn toàn không biết gì về Chúa. Ra trường đi làm thì nó sẽ
là trụ cột của gia đình, rồi họ hàng nhà nó sẽ cho rằng nó bị “điên”, sẽ không
ai ủng hộ nó. Nghĩ đến đây thôi, tôi cảm thấy thương nó hơn lúc nào hết. Tôi
thầm trách: “Tại Chúa cả đấy! Chúa lo mà giải quyết giúp nó đi kìa.” Tuy nó không nói ra, nhưng vẻ mặt và ánh mắt
u buồn nhìn về một hướng nào đó xa xăm của nó, thì tôi có thể đoán ra và hiểu
được phần nào.
Sau một tuần
sống trong sự thinh lặng, chỉ có tôi, nó và Chúa thì tôi và nó đã cảm nghiệm
được ơn gọi mà Chúa đã trao ban.Một lần nữa gói ghém đồ đạc, tạm rời xa nhà
Dòng, tôi và nó về quê để trình bày ước
nguyện với gia đình, với Cha xứ.Tôi rất vui vì được gia đình ủng hộ, lúc này
tôi cũng không khỏi lo lắng cho nó. Nhưng lạ lùng thay, gia đình nó không hề
ngăn cản mà còn ủng hộ cho ước nguyện của nó hết mình nữa. Chắc có lẽ họ đã ngộ
ra được điều gì đó chăng? Tôi và nó, cả hai đầu bất ngờ và không hiểu được tại
sao mọi sự lại dễ dàng như thế?
Đó đúng là mầu
nhiệm Chúa trao ban. Và tôi tin như vậy.
Cả gia đình nó
đều quyết định gia nhập vào Công giáo. Niềm vui của tôi và nó được nhân lên gấp
bội khi nó và gia đình chính thức được gọi là Kitô hữu.
-Chúa như thế
thì con mới dám yêu Chúa chứ!
Tôi và nó,
trong niềm hạnh phúc vô biên, đến nhà thờ để ca lời tạ ơn, chúc tụng Thiên
Chúa. Thoang thoảng đâu đó trong nhà xứ vang lên câu hát: “ Bỗng một ngày Chúa
gọi mời nghe xôn xao tim mình, bỗng một ngày tiếng thì thầm như thức tỉnh tâm
linh, Chúa ơi! Con đã bị Ngài chinh phục rồi…”.
Quả thật tôi
và nó đã bị người tình Giêsu chinh phục rồi! Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác
nơi Ngài!
TRÁI TIM NỞ HOA
1.
- Má phải ráng
ăn chút gì vô! Con biết má buồn và nhớ anh Hai nhưng nếu anh Hai thấy má như
vậy, anh Hai có vui được không? - Đứa em an ủi mẹ.
Người mẹ từ từ
bưng chén cơm lên, bà nhìn những bông hoa tím biếc được nâng niu cắm vào chiếc
bình thủy tinh, nước mắt chực trào…
-------------------------------------------------------------
Chỉ còn vài
tháng nữa là thi đại học, nó dồn hết tâm trí ôn tập, góc phòng của nó lúc nào
cũng ngổn ngang sách vở. Nó học từ 4 giờ sáng đến 12 giờ khuya. Má lo cho nó,
nó chỉ cười hè hè:
- Thi học kỳ
xong con phải thi tốt nghiệp, giữa tháng 7 còn thi đại học nữa, bây giờ không
ôn sợ không kịp, má đừng lo.
Nghe nó nói,
má chỉ biết thở dài, đặt ly sữa lên bàn rồi đi xuống bếp. Nó cứ lao đầu vào
học, học và lại học. Có lẽ do học hành quá nên mấy ngày nay nó hay bị đau đầu,
nó nghĩ chắc là do nó thức khuya nên không bận tâm mấy. Thế nhưng những cơn đau
đầu càng ngày càng nhiều và kéo dài hơn, nhiều lần nó còn bị chóng mặt rồi té
ngã. Tất cả những việc đó nó đều giấu ba má, nó sợ ba má lo lắng. Cho đến một
hôm, khi vừa với tay lấy cuốn sách trên kệ thì mắt mũi nó tối sầm, đầu nó
choáng váng như bị ai đánh, nó chỉ kịp “Á” lên một tiếng rồi ngất đi. Lúc tỉnh
dậy, ba má đã ở bên, dù rất đau nhưng nó vẫn gượng cười:
- Con
…không…sao, chắc tại…con thiếu ngủ.
Nhìn đôi chân
mày nhíu lại của ba và vẻ mặt lo lắng của má, nó biết nó không thể giấu ba má
được nữa. Sáng hôm sau, ba đưa nó đi khám, sau một hồi chụp phim, đo điện não
và làm các xét nghiệm linh tinh, cuối cùng cũng có kết quả. Lúc nhận được kết
quả, khuôn mặt ba cứng đờ nhưng vẫn cố gượng cười trấn an nó, ba bảo nó ngồi
đợi ba, ba đi gặp bác sĩ có việc. Lát sau, ba quay lại, khuôn mặt lộ rõ vẻ bất
an:
- Chưa có kết
quả chính xác. Bác sĩ nói ở đây trang thiết bị còn thiếu, mai ba đưa con lên
bệnh viện tỉnh kiểm tra lại.
Nó biết ba
đang giấu nó điều gì đó nhưng nó không tài nào đoán nổi. Đêm nay, cả nhà không
ai ngủ được. Ba đưa võng đều đều, tiếng cót két, nghe não nề cả đêm. Má trăn
trở, bất an, thở dài thườn thượt. Còn nó cứ lơ mơ suy đoán bệnh tình của mình.
Hôm sau, tại
bệnh viện tỉnh, ba không thể giấu nó được nữa, nó đã chết lặng vài giây khi lén
nghe được sự thật: Nó bị u não, khối u ngày càng lớn và chèn ép các dây thần
kinh xung quanh, đây là nguyên nhân của những triệu chứng bất thường. Cách duy
nhất là phẫu thuật cắt bỏ nhưng vì khối u quá lớn nên tỉ lệ thành công chưa tới
20%, chưa kể sẽ có di chứng…Bác sĩ bảo cần phải phẩu thuật càng sớm càng tốt,
nếu không thì…
Tai nó ù đi.
Nó lặng người, đờ đẫn dựa vào tường. Khuôn mặt nó tái mét, rồi nó nghĩ tới số
tiền gần tám trăm triệu chi phí cho ca phẫu thuật. Nó rùng mình ớn lạnh.
2.
Ngay hôm đó,
nó nhập viện. Nằm trong bệnh viện, nó tua lại cuốn phim đời mình: Nó, một đứa
con trai mười tám đầy mơ ước, hoài bão. Cách đây vài ngày nó còn đang nỗ lực mở
cánh cửa tương lai. Còn bây giờ, nó đang lật ngửa những quân bài sinh tử để
đánh cược với Thần Chết. Tỉ lệ sống 20% là cái gì đó quá mơ hồ. Tám trăm triệu?
Gia đình nó chắt chiu mấy chục năm mới đủ? Cho dù phẫu thuật thành công thì đã
sao? Di chứng? Câm, điếc hay trở thành người thực vật? Rồi nó sẽ giúp được gì
cho ba má hay lại trở thành gánh nặng của gia đình. Sao cuộc đời tàn nhẫn quá,
cứ muốn dồn nó vào đường cùng? Chúa ở đâu, sao Chúa không giúp nó? À đúng rồi, sao nó không kêu
cầu Chúa, nó là người Công giáo mà. Nghĩ về Chúa, một hi vọng lóe lên.
Hôm sau, nó nhờ ba đem vào vài cuốn sách, nó
phải học, nó sắp khỏi bệnh rồi, nó tin Thiên Chúa không bỏ rơi nó, nó tin phép
lạ sẽ xảy ra. Nhưng liệu có phép lạ nào không? Phép lạ chỉ xảy ra với người
mạnh tin, còn nó… Bao lâu nay, nó chỉ lao đầu vào học, học và lại học…Những lúc
như vậy nó bỏ Chúa ở đâu? Ở nhà thờ chăng? Lâu rồi nó chưa đến nhà thờ. Trong
lời cầu nguyện chăng? Bao lâu rồi nó chưa cầu nguyện? Khi nguy nan, người ta
chạy đến Chúa, lúc bình yên, họ đè Chúa dưới những nhu cầu đời thường. Nó giật
mình nhận ra, bao lâu nay nó đã đối xử với Chúa như vậy. Nó cố nhổm dậy, dựa
lưng vào tường, bất cẩn cuốn Cựu ước kế bên rơi xuống, rồi mở ra. Nó nhặt lên,
câu Thánh vịnh 126 đập vào mắt nó:
“Ví như Chúa
chẳng xây nhà,
Thợ nề vất vả
cũng là uổng công”
Nó dại đi, có
phải Chúa đang phạt nó vì bấy lâu nay nó chỉ lo học mà quên Chúa? Uổng
công…Uổng công…Hai từ ấy cứ ám ảnh nó. Bây giờ nó phải cầu nguyện, cầu nguyện
để chuộc lỗi với Chúa…và để xin một phép lạ chữa lành. Nó chắp tay…Nó cầu
nguyện…
Mới mà đã một
tuần trôi qua, hằng ngày ba má thay phiên nhau chăm sóc nó, má hay nấu những
món nó thích để cho nó vui. Tay nó run run cầm thìa, nó ăn, dù lưỡi không nếm
được gì nhưng nó vẫn khen ngon. Đôi mắt má đỏ hoe, nước mắt lưng tròng mà không
dám để chảy xuống. Còn ba, ban ngày phải chạy vạy tiền bạc, ban đêm lại thức
trắng chăm sóc nó. Cái bóng người gầy gò ngoài hành lang, sao khắc khoải quá!
Những lúc như vậy, nó thấy thương ba má vô cùng, nó không muốn sống nữa, nó
muốn chết để dành tiền lo cho đứa em ngây thơ còn đang tuổi ăn học. Nhưng lòng
thương yêu của ba má thấu suốt những gì nó nghĩ, má nắm lấy bàn tay nó, nghẹn
ngào:
- Dù có chuyện
gì, ba má cũng sẽ chữa cho con.
Má khóc. Nó
cũng khóc.
Thời gian vùn
vụt trôi, càng ngày nó càng yếu hơn, những ống dây cắm dày người nó, liều thuốc
giảm đau tăng thêm. Người ta thấy rõ khuôn mặt nó gầy rạc đi, nước da tái xanh
như tàu lá chuối. Tới bữa, má kiên trì đút cho nó từng thìa cháo nhỏ, nó nuốt
từng thìa cháo như nuốt nước mắt vào lòng. Tuy rất yếu nhưng nó vẫn luôn đọc
sách, nó không cho phép mình tuyệt vọng, nó tin Chúa sẽ chữa lành cho nó như
chữa lành ông Gióp. Chúa là Đấng toàn năng mà.
3.
Vậy là ngày
nào nó cũng nghĩ về phép lạ nhưng phép lạ chưa xuất hiện thì hung tin đã tới.
Một hôm, tình cờ nó nghe tin đứa bạn thân nhập viện, trùng hợp là chung bệnh
viện với nó. Nó nhờ ba đẩy sang phòng đứa bạn. Thấy nó, hắn bắt chuyện trước:
- Ê mầy, đi
nghỉ mát mà không rủ tao mầy?
- Khùng hả
mầy! Mầy bị sao mà vào đây? – Nó tỏ vẻ bình thường.
- Bị gì đâu,
nghe tin mầy bệnh nên vô thăm.
- Thôi đi mầy,
mầy đâu có tốt lành cỡ đó!
- Tao bị bệnh
tim. Nặng lắm. – Hắn có vẻ thành thật.
- Chừng nào
mầy chết? – Nó hỏi.
- Nay y học
tiến bộ, bác sĩ bảo thay tim, chứ trước đây chắc chết thiệt!
- Khi nào mầy
thay tim?
- Ai hiến tim
mà thay? Thông minh, đẹp trai như tao mà chết sớm uổng. – Thằng bạn láu cá.
Tính thằng đó
là vậy, luôn thích chọc phá mọi người, chơi lâu với hắn, nó cũng bị nhiễm theo,
nó nói:
- Tưởng gì! Dễ
ẹt. Tao là Tôn Ngộ Không, mầy muốn mấy trái, tao cho?
- Vậy cho tao
xin hai trái, để dành mai mốt xài luôn. Hahaha…
Thằng bạn bật cười
làm nó cười theo. Thằng đó lúc nào cũng lạc quan, có lần nó hỏi tại sao hắn
luôn lạc quan như vậy, hắn đáp: “Đằng nào cũng chết, vậy tại sao không vui vẻ
mà chết?”. Nó chợt hiểu ra, cuộc sống luôn có nhiều lựa chọn, lạc quan hay bi
quan là do cách người ta lựa chọn. Thằng bạn nó đã lựa chọn tiếng cười. Còn nó,
nó lựa chọn điều gì? Một ý nghĩ táo bạo lóe lên trong đầu nó.
4.
Cái ý nghĩ táo
bạo ấy nhanh chóng bị dìm xuống bởi những cơn đau buốt óc. Các giác quan không
còn nghe theo sự điều khiển của nó, nhiều lúc nó đau đớn ngất đi. Lúc đó nó
nghe tiếng gọi. Nó tưởng mình đã chết và
Chúa Giêsu đang gọi mình, cho đến khi nghe tiếng má nức nở nó mới biết mình vẫn
còn sống. Nó vừa tỉnh dậy thì bác sĩ vừa đến, sau khi kiểm tra tình trạng của
nó, bác sĩ gọi ba má ra ngoài. Lúc ba má vào, nó thấy mặt má bần thần còn ba
thì cố tình tránh mặt nó. Nó đoán, có thể lần sau nó sẽ không tỉnh lại nữa. Nó
run sợ, cái ý nghĩ táo bạo lại lóe lên làm nó mất ngủ thêm một đêm nữa. Hôm sau, lấy hết cảm đảm, nó chủ động nói chuyện với ba má:
- Con muốn
hiến tim.
Ba dứt khoát:
- Không được!
Nó biết tính
ba, một khi ba đã quyết thì không có cách nào thay đổi, chính vì vậy nó quay
sang thuyết phục má. Ấy vậy mà má cũng dứt khoát như ba:
- Không được!
- Đằng nào con
cũng chết, nhưng nếu hiến tim con sẽ cứu được một người!
- Sống hay
chết là quyền của Thiên Chúa. – Ba đáp gọn.
- Con biết gia
đình mình khó khăn, hơn nữa chưa chắc phẫu thuật đã thành công. Xin ba má hãy
cho con làm điều này trước khi về với Chúa! –Nó nài nỉ.
- Con không
thể về với Chúa. – Ba nói chậm rãi từng tiếng. – Thân thể là đền thờ Chúa Thánh
Thần và sống hay chết là quyền tuyệt đối của Thiên Chúa, không ai được tự ý quyết định. Đó là tội trọng.
- Thế tại sao Thiên Chúa lại bắt con đau đớn thế
này? –Nó nấc mạnh.
Má lại khóc.
- Đó là thập
giá của con, con không được nghĩ đến cái chết nữa. –Ba kiên quyết.
- Nhưng mà…
- Nghe lời ba
đi con! – Má ngậm ngùi…
Nhìn vào đôi
mắt đỏ hoe, thâm quầng sau nhiều đêm thức trắng của má, nó nghẹn lời…
Vài ngày sau,
nó lại nhờ ba đưa đi thăm thằng bạn. Vừa thấy nó, thằng bạn reo lên:
- Có người
hiến tim cho tao rồi! – Đôi mắt lờ đờ vì bệnh tim của hắn ánh lên những tia hi
vọng.
- Mầy may mắn
đó. Mà ai hiến?
- Nghe ba má
tao nói là một người bị tai nạn, chắc không qua khỏi nên gia đình họ quyết định
hiến tim để giúp đỡ những người như tao.
Mà cũng may mắn thật, tim người đó hợp với tao, cùng tuổi, cùng giới tính và
cùng nhóm máu nữa! – Thằng bạn hớn hở kể.
- Chừng nào
mầy mổ?
- Cũng chưa
biết, bác sĩ bảo tao cứ chuẩn bị tinh thần, khi nào ân nhân ấy về Thiên Đàng
thì…Mà người tốt như vậy sẽ được lên Thiên Đàng phải không mầy? Mầy theo đạo
Công giáo mà!
- Có lẽ vậy…
- Khi nào ra
viện tao dẫn mầy đi ăn kem. Tao khao. – Đứa bạn cười hớn hở.
- Nhớ đấy,
thiếu tiền tao không trả giùm đâu. - Nó cũng cười.
Sáng hôm sau,
nó nhờ ba mời một vị linh mục đến cho nó xưng tội, nó thành tâm xưng thú tất cả
tội lỗi, ngay cả việc nó đã từng muốn chết. Xưng tội xong, nó cảm thấy tâm hồn
mình nhẹ nhõm, thanh thản đến lạ kỳ. Từ hôm nay, nó phải luôn sẵn sàng. Chút
thời gian ít ỏi còn lại, nó cố gắng ngắm nhìn cuộc sống xung quanh và khắc sâu
khuôn mặt ba má vào tim. Rồi nó mường tượng ra khuôn mặt nhân ái của Thiên Chúa
vì nó biết hình ảnh Thiên Chúa hiện diện trong mọi người.
5.
Thời gian vùn
vụt trôi…
Những buổi
sáng như những buổi sáng khác…
Những ngày như
những ngày khác…
Cuốn Tin mừng
luôn mở ở câu: “Hãy vác thập giá của mình theo Ta”.
Hai số phận
nằm trên hai chiếc giường như những chiếc giường khác…
Một buổi sáng
như những buổi sáng khác…
Một ngày như
những ngày khác…
Cuốn Tin mừng
luôn mở ở câu: “Hãy vác thập giá của mình Theo ta”.
Hai số phận
nằm trên hai chiếc giường như những chiếc giường khác…
Chỉ có điều,
hôm nay điểm đến của hai chiếc giường không giống nhau: Một chiếc được chuyển
sang phòng hồi sức sau phẫu thuật.
Chiếc-còn-lại-có-phủ-một-tấm-khăn-trắng…
Và-được-đưa-xuống-nhà-xác…
Lúc thu dọn đồ
đạc để đưa xác nó về, ba má tìm thấy một lá thư:
“Kính gửi ba
má!
Con bất hiếu
chưa đền đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục của ba má, đã vội đi xa. Con cảm ơn
ba má suốt đời tần tảo nuôi con. Dù chưa một lần nói ra nhưng sâu trong tim
con, con luôn yêu thương ba má. Vô cùng…
Ba à! Ba là
trụ cột của gia đình, là người mạnh mẽ nhất, nhưng con biết bây giờ đôi mắt ba
đã đỏ hoe rồi…Trong bệnh viện, nhiều lần con thấy ba tránh mặt con, con biết đó
là lúc ba khóc. Nếu được sống, con luôn muốn trở thành một người đàn ông như
ba…
Má ơi má! Con
đi rồi, má nhớ phải cẩn thận, đừng làm việc quá sức mà bệnh đó má. Má đừng khóc
nữa nhen má… đôi mắt má sưng lên rồi kìa…Con biết má đang nhớ con nhưng má ơi, đừng buồn! Con chỉ về với Chúa thôi
mà. Thiên Chúa sẽ yêu thương con như ba má yêu thương con. Trái tim của con vẫn
còn đập, nghĩa là con vẫn còn sống. Trên Thiên Đàng con sẽ luôn dõi theo ba má.
Con yêu ba má nhiều lắm.
“Em nè, cố
gắng học hành nghen em, dừng ham chơi khiến ba má buồn. Hai xin lỗi vì mỗi ngày
sinh nhật hay bổn mạng em Hai không thể mua quà cho em như anh của những đứa
khác. Hai biết em không trách gì Hai nhưng Hai áy náy lắm. Đôi lúc Hai còn
nghiêm khắc với em, chắc em ghét Hai lắm nhưng vì muốn em nên người, Hai vẫn
phải làm. Ba má làm việc quần quật nuôi anh em mình nên ít quan tâm đến em,
phận làm anh, Hai phải thay ba má chăm sóc em, thế nhưng nhiều khi Hai cũng
quên mất. Hai xin lỗi….Em nè, Hai nhờ em một việc được không? Em báo hiếu ba má
giúp Hai. Thương em nhiều lắm, thằng em khờ dại của Hai.”
Lúc xếp hành
lý trước khi ra viện, thằng bạn nó phát hiện ra một mảnh giấy nhỏ trong cuốn sổ
tay:
“Ê mầy, tao
giữ đúng lời hứa rồi nhen nhưng tao chỉ có một trái tim, mầy ráng giữ mà xài,
nhớ “bảo trì” theo định kỳ chứ không nó “hư”. À quên, mầy còn nợ tao một chầu
kem nghe chưa?” - Thằng bạn sững sờ trước những gì đọc được.
Và trong những
cuốn sách nó hay đọc khi nằm ở bệnh viện, người ta còn tìm thấy một ảnh Chúa
Giêsu chịu đóng đinh được kẹp trong quyển Youcat trang 286, câu 391, nói về
việc hiến tặng cơ quan, trong đó có vài dấu gạch nổi những cụm từ: “phục vụ
chính đáng”, “cách tự do và sáng suốt”, “người hiến tặng đã chết”… Dưới đó còn
có những dòng chữ nguệch ngoạc:
“Lạy Chúa
Giêsu, con sẽ không bao giờ từ bỏ thập giá của mình nhưng đến khi Chúa nhấc
thập giá khỏi vai con, xin Chúa hãy làm cho trái tim con nở hoa, nhen Chúa!”.
Và ngoài kia,
dưới bầu trời xám xịt, một khoảng trời trong xanh vừa mới ló ra, những tia nắng
vàng ươm nhẹ nhàng chiếu xuống mảnh vườn nhỏ nơi có loài hoa tím mà có một
người khi còn sống rất thích, cạnh khóm hoa vừa chết, những mầm non xanh biếc
đã nhú lên.