Suy Niệm
Lời Chúa Thứ Ba Tuần XIX
ĐỂ
ĐƯỢC CÙNG MẸ ĐI THEO CHÚA LÊN TRỜI
I. HỌC LỜI
CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 1,39-56
(39) Hồi ấy, bà Ma-ri-a lên đường vội vã, đến miền
núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. (40) Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a
và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. (41) Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà
Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy
Thánh Thần, (42) liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc
hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc
phúc. (43) Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ?
(44) Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng
đã nhảy lên vui sướng. (45) Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ
thực hiện những gì Người đã nói với em”.(46) Bấy giờ bà Ma-ri-a
nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, (47) thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi (48) Phận tỳ nữ hèn mọn Người đoái
thương nhìn tới. Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. (49) Đấng
Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí
thánh chí tôn ! (50). Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những
ai kính sợ Người. (51) Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan
phường lòng trí kiêu căng. (52) Chúa hạ bệ những ai quyền thế. Ngươi
nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. (53) Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư.
Người giàu có, lại đuổi về tay trắng. (54) Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi
tớ của Người, (55) như đã hứa cùng cha ông chúng ta. Vì Người nhớ
lại lòng thương xót, dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến
muôn đời”. (56) Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi
trở về nhà.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng có thể
được chia thành ba phần như sau:
- Phần I (39-40): Sau khi
trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế do lời thưa “xin vâng”, Đức Ma-ri-a vội vã
lên đường thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét, đã có thai được 6 tháng,
như lời sứ thần cho biết. Hai bà mẹ đều được chúc phúc vì đã quảng
đại đáp lời mời gọi, cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên
Chúa.
- Phần II (41-46a): Thần
Khí tác sinh và hoan lạc đã bao trùm Đức Trinh Nữ, cũng làm cho con
trẻ Gio-an đang ở trong dạ mẹ nhảy mừng, chào đón Đấng Thiên sai trong
lòng Đức Ma-ri-a. Thần Khí ấy cũng tác động làm cho bà Ê-li-sa-bét
nhận biết cô em họ Ma-ri-a đây, chính là Mẹ của Đấng Thiên Sai, đã
đến viếng thăm mình. Cũng chính Thần Khí ấy làm cho niềm vui của
Đức Ma-ri-a bộc phát thành bài ca “Ngợi khen” (Magnificat).
- Phần III (46b-56): Bài
ca tóm lại lịch sử của dân Chúa trong quá khứ, hiện tại và tương
lai. Cách riêng Chúa đã làm cho Ma-ri-a những điều trọng đại, cũng như
đã từng làm trong lịch sử dân It-ra-en: Người hạ những kẻ quyền thế
kiêu căng xuống và nâng những người hèn mọn khiêm nhường lên; ban cho
kẻ nghèo khó được no đầy ơn phúc và để người giàu có bị đuổi về
tay không. Người luôn phù trì cho dân tộc Ít-ra-en, đúng như lời Người
đã hứa với tổ phụ Áp-ra-ham, rằng sẽ thương xót ông và con cháu đến
muôn đời.
3. CHÚ THÍCH:
- C 39: + Lên đường
vội vã:
Chỉ một thời gian ngắn sau biến cố Truyền tin, Đức Ma-ri-a đã vội vã
lên đường đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét (hay cũng gọi là I-sa-ve),
mà sứ thần đã cho biết bà mới có thai được 6 tháng. Bà này đã chịu
tủi hổ trước mặt người đời, vì bị son sẻ không con. + Đến miền núi, vào một
thành thuộc chi tộc Giu-đa: Có lẽ thành mà Đức Ma-ri-a định
tới là một trong mười một địa hạt miền Giu-đê. Nhiếu người nghĩ đó
là A-in Ka-rim, cách thủ đô Giê-ru-sa-lem 6 cây số về phía Tây. Con
đừong từ Na-da-rét đến A-in Ka-rim dài 150 cây số.
- C 40-41: + bà vào
nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét: Cuộc gặp gỡ giữa hai
bà mẹ thật ra là cơ hội để thai nhi Giê-su gặp gỡ thai nhi Gio-an là vị
tiền hô của Người. + Đứa con trong bụng nhảy lên: Gio-an Tẩy Giả bắt đầu
sứ mệnh ngôn sứ bằng động tác nhảy lên trước Đấng Thiên Sai (Mêsia)
đang ẩn mình trong dạ mẹ, giống như vua Đa-vít xưa đã nhảy mừng khi ra đón
rước Hòm Bia Giao Ước. Truyền thống coi sự kiện này là dấu hiệu Gio-an Tẩy
Giả được khỏi tội tổ tông truyền. + Bà được đầy ơn Chúa Thánh Thần:
Thánh Thần đã tác động khiến bà Ê-li-sa-bét cảm nhận được Mẹ Đấng
Mê-si-a mang Người đến viếng thăm nhà mình.
- C 42-44: + Em được
chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng
được chúc phúc: Bà Ê-li-sa-bét ca tụng cô em họ Ma-ri-a thực là diễm
phúc hơn mọi phụ nữ, vì thai nhi trong lòng Ma-ri-a là Đấng được chúc
phúc. + Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ?:
“Chúa tôi” ở đây là danh xưng của Đấng Mê-si-a. Nhờ được Thần Khí tác
động mà bà Ê-li-sa-bét đã nhận ra Chúa của mình là Thai nhi mà cô em
Ma-ri-a đang cưu mang. Danh xưng Đức Giê-su là “Chúa” được Tin Mừng Lu-ca
sử dụng đến 40 lần. + Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em
chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng: Ê-li-sa-bét
chia sẻ cho Ma-ri-a sự lạ mà bà cảm nghiệm vừa xảy ra nơi bản thân. Đó
cũng chính là lý do khiến bà nhận biết Đức Ma-ri-a đang cưu mang Thai
Nhi Cứu Thế.
- C 45: + Em thật có
phúc, vì đã tin: Ma-ri-a đã tin vào những lời Chúa phán với mình khi
sứ thần truyền tin sẽ được thực hiện, và trở thành người tín hữu
đầu tiên của thời Tân Ước. Ngược lại với ông Da-ca-ri-a chồng bà vì
không tin và đòi thấy dấu lạ, nên đã bị câm cho đến ngày các điều đó
xảy ra (x. Lc 1,20).
- C 46-50: +“Linh hồn tôi
ngợi khen Đức Chúa: Sau khi nghe bà Ê-li-sa-bét khen là có phúc, Ma-ri-a đã
quy hướng lời ca khen đó về cho Thiên Chúa trong bài kinh “Ngợi khen
Thiên Chúa” (Magnificat). Bài này mô phỏng theo bài ca mà bà An-na là
mẹ của ngôn sứ Sa-mu-en, sau khi được Đức Chúa cho sinh con trai và mang
đứa trẻ lên Đền Thờ tại Si-lô thời Tư tế Ê-li, để thánh hiến dâng cho
Đức Chúa (x. 1 Sm 2,1-10). Kinh này nhấn mạnh hai đìều: Một là người
nghèo hèn bé mọn được Chúa bênh vực (x. Xp 2,3 ; Mt 5,3); Hai là dân
Ít-ra-en được Chúa tuyển chọn và yêu thương (x. Đnl 7,6). Đức Ma-ri-a đã
hát lên để bày tỏ lòng tri ân của mình (cc 46-49) và của toàn dân It-ra-en
(cc 50-55), vì nay đến lúc lời hứa cứu độ của Đức Chúa đã được thực
hiện.
- C 51-55: + Chúa giơ tay biểu
dương sức mạnh:
Chúa dùng quyền năng để can thiệp và bênh vực người hèn yếu (x. Tv
118,15-16). + Vì Người nhớ lại lòng thương xót: Cựu Ước thường ghi
là “Thiên Chúa nhớ lại” để diễn tả việc Người luôn trung thành với lời
hứa và thi hành những lời Ngừơi đã phán qua các ngôn sứ (x. St 8,1; 9,15; Xh
2,24). Lu-ca cũng không quên ghi lại lời chúc tụng tương tự trong bài ca
của Da-ca-ri-a: “Người nhớ lại lời xưa giao ước” (Lc 1,72).
- C 56: + Ở lại với
bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng: Ở lại để phục vụ và giúp đỡ cho bà chị
Ê-li-sa-bét, làm các việc nhà giúp đỡ bà, trong thời kỳ cuối trước khi
sinh con, khi bà không thể lao động bình thường được. Nhưng Đức Ma-ri-a
chỉ phục vụ đúng mức mà thôi. + rồi trở về nhà: Một tuần sau
ngày bà Ê-li-sa-bét sinh nở, sau khi con trẻ được đặt tên và được chịu phép
Cắt Bì để được gia nhập vào dân Ít-ra-en, thì Đức Ma-ri-a đã trở về nhà
tại thành Na-da-rét.
4. CÂU HỎI: 1) Lý do nào khiến Đức Ma-ri-a phải vội vã lên
đường viếng thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét ? 2) Truyền thống Công Giáo khẳng định
Gio-an Tẩy Giả được khỏi tội tổ tông truyền từ lúc nào ? 3) Bà Ê-li-sa-bét được
đầy Thánh Thần đã gọi Đức Ma-ri-a bằng tước hiệu nào ? 4) Tại sao bà
Ê-li-sa-bét khen Đức Ma-ri-a diễm phúc, trái với ông Gia-ca-ri-a là chồng bà ?
5) Bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat) có nguồn gốc thế nào trong Cựu
Ước và nội dung nhấn mạnh những tư tưởng nào ? 6) Đức Ma-ri-a ở lại nhà bà
Ê-li-sa-bét trong bao lâu và nhằm mục đích gì ?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Bà Ê-li-sa-bét được
tràn đầy Thánh Thần đã ca tụng Đức Ma-ri-a rằng: “Em được chúc phúc hơn
mọi người phụ nữ” (41-42a), và: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng
Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (45). Bấy giờ bà
Ma-ri-a nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (46).
2. LỊCH SỬ NGÀY ĐẠI LỄ VÀ CÂU CHUYỆN :
1) LỊCH SỬ TÍN ĐIỀU ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI:
+ Từ thuở ban đầu, các
giáo đoàn tiên khởi đều tôn kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Từ những đoạn
Thánh Kinh Tân Ước, đến các giáo phụ, rồi Công đồng chung Ê-phê-sô năm
431 đã tuyên bố “Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa”. Đã có những lễ nói
đến lúc chấm dứt cuộc đời của Đức Ma-ri-a như: Lễ Đức Mẹ An Giấc
(dormitio), Lễ Đức Mẹ Chuyển Biến (Transitus), Lễ Đức Mẹ Sinh Ra Trên
Trời (Natalis), Lễ Đức Mẹ được Nâng Lên Trời (Assumptio).
+ Riêng Lễ Đức Mẹ An Giấc (Dormitio) đã
được long trọng cử hành đó đây trong Giáo Hội Đông Phương. Nhất là từ
sau Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431, nhưng mãi đến thế kỷ thứ 7, lễ
này mới được du nhập vào Giáo Hội Tây Phương.
Từ đó về sau nhiều thư
thỉnh nguyện của các giám mục, các dòng tu, các nhà thần học được
gửi đến Đức Giáo Hoàng để xin Ngài định tín về việc Đức Mẹ Hồn
Xác Lên Trời. Trong Công đồng Vaticăng I, nhiều nghị phụ cũng yêu cầu
Đức Thánh Cha quyết định điều đó, vì theo các ngài thì việc Đức Mẹ
Hồn Xác Lên Trời có liên quan mật thiết với đức đồng trinh và chức
vụ làm mẹ Đấng Cứu Thế của Ngài. Hơn nữa, vì Mẹ đã được cứu
chuộc hoàn toàn, nên cũng phải được tôn vinh toàn diện như lời thánh
Phao-lô: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích
cho những ai yêu mến người, tức là cho những ai Người đã biết từ
trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với
Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông
đúc” (Rm 8,28-29). Dựa theo các thỉnh nguyện thư đó, năm 1946, Đức Pi-ô
12 đã gửi đến mỗi giám mục một lá thư và yêu cầu trả lời như sau:
“Đức cha và hàng giáo sĩ, giáo dân trong giáo phận của Đức cha, có
xác tín và có muốn công bố việc Đức Ma-ri-a hồn xác lên trời như
một tín điều hay không ?” Hầu hết các thư trả lời đều đồng ý và
thỉnh nguyện như vậy. Thế là vào ngày 1.11.1950, Đức Pi-ô 12 đã long
trọng tuyên bố tín điều Đức Ma-ri-a Hồn Xác Lên Trời cho toàn thể Giáo
Hội tin kính và mừng chung vào ngày 15 tháng 8 hằng năm.
+ Đức Thánh Cha đã xác
quyết: “Thế nên Đức Thánh Mẫu cao cả, ngay từ đời đời và do cùng
một quyết định tiền định, đã được kết hợp với Đức Giê-su Ki-tô một
cách huyền nhiệm, vô nhiễm khi đầu thai, đồng trinh vẹn sạch khi làm
Mẹ, cộng tác quảng đại với Đấng Cứu Thế, Đấng đã chiến thắng hoàn
toàn sự tội và các hiệu quả của nó, thì cuối cùng để kết thúc
mọi đặc ân ngài đã được, Đức Trinh Nữ cũng đã gìn giữ khỏi bị hư
nát ở trong mồ, để nên giống Con Mình. Sau khi chiến thắng sự chết,
ngài cũng được tôn vinh trên trời cả hồn lẫn xác, nơi Ngài được sáng
láng làm Nữ Vương ngự bên hữu Con mình là Vua bất tử của mọi thời”
(trích CGKPV trang 334).
2) MẸ MA-RI-A HẰNG CỨU GIÚP NHỮNG AI CHẠY ĐẾN KÊU CẦU
NGƯỜI:
ĐU-LỚT HAI-ĐƠ (Douglas
Hyde) vốn là một người vô tín và thù ghét đạo Công giáo. Ông là chủ
bút một tờ báo lớn ở nước Anh. Với tư cách là chủ bút, ông nghiên
cứu về Giáo hội để viết những bài phê bình chống đối gay gắt. Tuy
nhiên một điều lạ lùng đã xảy ra, là ông càng nghiên cứu về giáo lý
của Giáo Hội, thì tâm trí ông lại càng thêm tin tưởng vào các chân
lý ấy. Tuy vậy ông vẫn chưa quyết định dứt khóat theo đạo ngay.
Một hôm, trên đường từ
nhà đến tòa soạn ở trung tâm thủ đô Luân Đôn, lúc xe lửa đến trạm
dừng, Đu-Lớt thấy tấm biển ghi “Nhà thờ Công giáo” ở bên đường, ông
liền thử vào bên trong nhà thờ xem sao. Ông ngồi vào hàng ghế ở cuối
nhà thờ và rồi thắc mắc tại sao mình lại có mặt ở đây? Bấy giờ ông
thấy một cô gái bước vào nhà thờ, nét mặt âu lo buồn khổ. Cô ta đi thẳng
đến trước tòa Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp bên trái của cung thánh nhà thờ
và quỳ dưới hình Đức Mẹ một hồi lâu. Sau đó, cô đứng dậy đi xuống
cuối và ra khỏi nhà thờ. Khi cô đi ngang, Đu-lớt nhận thấy nét mặt
của cô ta đã bình thản trở lại chứ không còn lo âu sầu não như khi mới bước
vào nhà thờ.
Ngay lúc đó Đu-lớt quyết
định thử làm theo cô ta là cũng đến quỳ trước ảnh Đức Mẹ. Sau này
ông đã viết trong cuốn “tôi tin” (I believed) như sau: “Tôi không biết người
ta đã cầu nguyện với Đức Mẹ thế nào ? Cuối cùng tôi nghe thấy chính
mình sắp nói ra một điều gì đó thích hợp. Tuy nhiên
khi bắt đầu thốt ra thì tôi lại thấy lời
đó có vẻ kỳ cục làm sao ! Nhưng điều này không quan trọng gì. Tôi biết
rõ là sự tìm kiếm bấy lâu nay của tôi đã đạt tới mục đích… Lúc ra
khỏi nhà thờ, tôi cố gắng hồi tưởng lại những gì tôi nói và hầu
như tôi bật cười lên khi nhớ lại những lời ấy. Chúng giống hệt những
lời ngân lên trong một điệu khiêu vũ !” Cuối cùng Đu-lớt đã đạt tới đức tin
vào Chúa Giê-su qua lời cầu bầu của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.
3) ĐƯỢC CHÚA BAN ƠN CỨU ĐỘ NHỜ CÓ LÒNG YÊU MẾN ĐỨC
MẸ:
Một hôm trong
đám những người hành hương đến Arc có một người đàn bà mang đại tang. Bà vào
giữa nhà thờ đứng như trời trồng ở giữa mọi người. Bà có vẻ rất đau khổ. Lý do
là chồng bà, một người đã bỏ đạo từ lâu cách đây mấy bữa đã nhảy xuống sông tự
tử… đã chết mà không được lãnh nhận những bí tích cuối cùng. Cha Gioan Maria
Vianey đi qua… Bà chưa kịp nói gì thì Cha ghé vào tai bảo bà:
- Ông nhà đã
được cứu rỗi rồi.
Thấy người đàn
bà có vẻ quá ngạc nhiên, cha nói lại một lần nữa:
- Tôi đã bảo
ông nhà đã được cứu rỗi rồi mà.
Bà thắc mắc
hỏi lại với một giọng đầy hoài nghi, cha nhấn mạnh từng tiếng:
- Tôi bảo bà
là ông nhà đã được cứu rỗi rồi. Ông hiện đang ở trong Luyện ngục. Phải cầu
nguyện nhiều cho ông ta. Giữa nhịp cầu và dòng nước ông đã có được một thời
gian để ăn năn thống hối. Bà còn nhớ là trong tháng Đức Mẹ, bà đã cho làm một
bàn thờ trong phòng của bà không? Thỉnh thoảng, chồng của bà, mặc dầu đã bỏ đạo
cũng đến hợp lời cầu nguyện với bà. Thái độ đó đã đem lại cho ông ta ơn thống
hối và tha tội vào phút cuối cùng của cuộc đời.
3. SUY NIỆM:
1) ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ ĐỨC GIÊ-SU: Mẹ đã thụ thai và hạ
sinh Đức Giê-su: Tin Mừng Lu-ca thuật lại việc Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã
được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế nhờ có Chúa ở
cùng, và luôn kết hiệp mật thiết với Người. Sau lời thưa “xin vâng”,
Ma-ri-a đã đuợc thụ thai mà vẫn bảo toàn đức trinh khiết nhờ quyền
năng Thánh Thần (x. Lc 1,28-38). Sau đó Ma-ri-a theo “Ông Giu-se từ thành
Na-da-rét miền Ga-li-lê lên thành Bê-lem, miền Giu-đê là thành vua
Đa-vít, vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua Đa-vít. Ông lên đó khai tên
cùng với người đã đính hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có
thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt
khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong
máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,4-7).
2) KÍNH MỪNG MA-RI-A ĐẦY ƠN PHÚC: Ma-ri-a đã được dư đầy ơn phúc và luôn được Thiên Chúa ở
cùng như lời chào của sứ thần truyền tin (x. Lc 1,28).
+ Mẹ đầy ơn phúc vì tâm hồn Mẹ trong sạch và luôn kết
hiệp với Chúa.
+ Mẹ có phúc vì đã tin Lời Chúa: Bà Ê-li-sa-bét
đã ca tụng Đức Ma-ri-a: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng: Chúa sẽ
thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45).
+ Mẹ có phúc vì cưu mang Chúa Giê-su là Lời Thiên Chúa
làm người: Nên Mẹ đã được ví giống
như Hòm Bia Giao Ước Mới của
Thiên Chúa (x. Ga 1,14; Mt 1,23).
+ Nhưng nhất là Mẹ có
phúc vì đã nghe và thực hành Lời
Chúa: Đức Giê-su đã bổ túc lời khen của một phụ nữ ca khen công cưu
mang nuôi dưỡng Chúa của Mẹ như sau: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay
kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27-28). Do đó, Đức Giáo
Hòang Phao-lô VI đã gọi Đức Ma-ri-a là “người môn đệ tiên khởi và
tuyệt hảo nhất của Đức Ki-tô”.
3) ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ HỘI THÁNH:
+ Chính Chúa Giê-su đã đặt Đức
Ma-ri-a làm Mẹ Hội Thánh khi trao Mẹ cho môn đệ Gio-an đại diện Hội
Thánh, để ông thay Người phụng dưỡng Mẹ sau khi Người lên trời, như Tin Mừng
Gio-an thuật lại: “Đứng gần thập giá Đức Giê-su có Thân Mẫu Người, chị
của thân mẫu là bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a
Mác-đa-la. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh,
Đức Giê-su nói với mẹ rằng: “Thưa bà, đây là con của Bà”. Rồi Người
nói với môn đệ: “Đây là mẹ anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước
Bà về nhà mình” (Ga 19,25-27).
+ Đức Ma-ri-a là Mẹ
của Hội Thánh vì là mẹ của Đức Giê-su là Đầu, nên cũng là Mẹ của Hội Thánh là
thân thể Người, trong đó có các tín hữu chúng ta, như thánh
Phao-lô dạy: “Thiên Chúa đặt Người làm Đầu toàn thể Hội Thánh. Mà
Hội Thánh là thân thể Đức Ki-tô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm
cho tất cả được viên mãn” (x. Ep 1,22b-23); “Người cũng là đầu của
thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh” (Cl 1,18).
+ Đức Ma-ri-a nêu gương các
nhân đức cho các tín hữu học tập như sau:
Nêu gương tin
cậy mến qua việc lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và mau
mắn xin vâng (x. Lc 1,30-36);
Nêu gương bác
ái chủ động đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét để chia sẻ niềm vui ơn
cứu độ, và cho thai nhi Gio-an “nhảy mừng” trong dạ mẹ vì được khỏi tội
tổ tông truyền. Đức bác ái nơi Mẹ còn thể hiện qua việc Mẹ sẵn sàng ở
lại ba tháng để phục vụ bà Ê-li-sa-bét cho tới khi bà sinh con, rồi
mới trở về nhà (x. Lc 1,39-56).
Mẹ cũng nêu gương cầu
nguyện tín thác khi chỉ cầu xin Đức Giê-su giúp đỡ đôi tân hôn và để
Người toàn quyền quyết định phải làm gì, làm khi nào và làm như thế nào. Dù chưa
tới “Giờ” hành động, nhưng Đức Giê-su đã làm phép lạ đầu tiên, là biến
nước lã thành rượu ngon để giúp đôi tân hôn như lời Mẹ cầu bầu (x. Ga
2,1-11).
4) ĐỨC MA-RI-A ĐƯỢC CHÚA BAN THƯỞNG HỒN XÁC LÊN TRỜI:
Ngoài truyền thống hay
Thánh Truyền là ký ức tông truyền, Giáo Hội còn dựa trên một số
đoạn Thánh Kinh cho thấy Mẹ Thiên Chúa liên kết mật thiết với Đức
Giê-su Đấng Cứu Độ như sau:
+ “Dòng giống người nữ sẽ
đánh vào đầu mi” (St 3,14-15): Câu này có ba cách hiểu: Một là
“Sự chiến thắng của dòng giống người đàn bà trên dòng giống con
rắn” (Bản văn tiếng Do Thái). Hai là “Người đàn bà sẽ đạp lên đầu
mi” (Bản văn tiếng La Tinh), khẳng định vai trò của Mẹ Đấng Mê-si-a
trên con rắn hỏa ngục là ma quỷ (x. Kh 12,13.17). Ba là “Người đó sẽ
đánh vào đầu mi” (Bản văn Bảy mươi tiếng Hy Lạp), hiểu về Đức Giê-su là
Đấng sẽ chiến thắng con rắn ma quỷ.
+ “Đấng đầy ân sủng, luôn được
Thiên Chúa ở cùng” (x. Lc 1,28): Đầy ơn phúc và luôn có Chúa
là hoàn toàn trong sạch thánh thiện, nên Mẹ không phải chết như loài
người chúng ta. “Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là
Giê-su” (Lc 1,31): Đức Ma-ri-a được chọn làm Mẹ Đấng Thiên Sai, Đấng sẽ
thay vua Đa-vít để cai trị Ít-ra-en, và triều đại Người sẽ luôn vững
bền.
+ Đức Ma-ri-a là E-và Mới:
Đã cộng tác với Đức Giê-su là A-Đam mới, để vâng phục Chúa Cha (x. Rm
5,12-19 ; PI 2,6-11). Mẹ đã tích cực cộng tác với Đức Giê-su trong cuộc
khổ nạn (x. Ga 19,25), thì cũng được dự phần vào sự phục sinh vinh
quang với Người. Đức Giê-su A-đam Mới đã qua đau khổ thập giá để phục sinh và
lên trời, thì tiếp theo Chúa là Đức Ma-ri-a E-và Mới cũng được Thiên Chúa triệu
hồi về trời hồn xác.
5) ĐỂ CÓ THỂ CÙNG MẸ THEO CHÚA LÊN TRỜI:
+ Việc Hội Thánh tuyên
bố tín điều “Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời” dạy các tín hữu chúng ta ý
thức rằng: “Quê hương chúng ta ở trên trời. Nơi đó chúng ta sẽ gặp Đấng Cứu
Chuộc là Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta” (Pl 3,20). Tuy nhiên chúng ta chỉ
được lên trời nếu biết tin yêu Chúa, phải bỏ ý riêng và tội lỗi của mình,
vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa noi gương Mẹ xưa.
+ Ngày nay tuy Mẹ Ma-ri-a đã
lên Trời, nhưng Mẹ vẫn luôn cầu bầu cùng Chúa Giê-su cho chúng ta
là con cái Mẹ đang còn ở trần gian. Chúng ta hãy xin Mẹ giúp chúng ta
được chết lành trong tay Đức Mẹ.
+ “Đến với Chúa Giê-su nhờ Mẹ
Ma-ri-a” (Ad Jesum per Mariam): Hãy năng cầu nguyện kết
hiệp với Mẹ Ma-ri-a, noi gương Hội Thánh thời sơ khai (x. Cv 1, 14).
Hãy hiệp cùng Mẹ cầu xin Chúa Giê-su giúp vượt qua mọi khó khăn như đôi tân
hôn tại tiệc cưới Ca-na xưa (x. Ga 2, 3).
+ Sống đức Tin, Cậy, Mến noi
gương Đức Mẹ: Hãy năng nghe Lời Chúa phán, suy đi nghĩ lại để tìm
hiểu ý Chúa muốn và sẵn sàng xin vâng ý Chúa, chấp nhận mọi may rủi
xảy đến với lòng tín thác vào Chúa như Mẹ đã làm và được Tin Mừng thuật
lại: “Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong
lòng” (Lc 2, 19. 51).
4. THẢO LUẬN:
1) Trời hay Thiên Đàng ở đâu ? Phải chăng ở trên không
trung hay trên một hành tinh nào đó trong vũ trụ ? 2) So sánh giữa việc
lên trời của Đức Mẹ hôm nay giống và khác với việc thăng thiên của
Chúa Giê-su thế nào ? 3) Thân xác Chúa Giê-su và thân xác Đức Mẹ hiện
nay ở đâu ? 4) Theo giáo lý Công giáo thì đến ngày tận thế, xác loài
người ta sẽ sống lại và chịu phán xét. Vậy những thân xác đã bị
hóa thành tro bụi hay bị thú dữ ăn thịt thì làm sao sống lại được ?
5) Những kẻ khi còn sống mà bị mù què câm điếc, mặt mũi xấu xí,
thì khi sống lại có bị như vậy nữa không ? 6) Ngay từ bây giờ chúng ta
phải làm gì để sau này cũng được Chúa ban hạnh phúc Thiên Đàng cùng
Mẹ ?
5. NGUYỆN CẦU:
1) LẠY CHÚA BA NGÔI CỰC
THÁNH. Hôm nay con cảm tạ Chúa vì Chúa đã thực hiện việc lớn lao nơi
Đức trinh Nữ Ma-ri-a, là người con thân yêu và là nữ tỳ hèn mọn của
Chúa. Chúa đã thương cho Mẹ trở nên giống Con mình là Chúa Giê-su: Nhờ
giữ đức trinh khiết vẹn toàn, tâm hồn không vương chút bùn nhơ tội
lỗi; Nhờ biết đặt trọn niềm tin vào lời Chúa phán sẽ được thực hiện;
Nhờ luôn xin vâng ý Chúa làm Mẹ
Đấng Thiên Sai; Nhờ biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa; Nhờ tham
phần vào sự đau khổ của Chúa Giê-su trên đường thánh giá... mà Mẹ
Ma-ri-a đã được Chúa ban thưởng bội hậu là được lên trời cả hồn lẫn
xác. Xin cho chúng con luôn yêu mến và kết hiệp cùng Mẹ trên bước đường theo
Chúa, để sẽ cùng được lên trời với Chúa và với Mẹ sau này.
2) LẠY MẸ MA-RI-A LÀ
MẸ RẤT NHÂN TỪ. “Xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy
đến cùng Đức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng
nhậm lời”.
LẠY MẸ. Hôm nay cùng
với Hội thánh hoàn cầu, chúng con long trọng mừng lễ Mẹ Hồn Xác Lên
Trời. Xin cho chúng con biết chạy đến với Mẹ mỗi khi gặp gian nan thử
thách như bị thất bại trong việc làm ăn; Những lúc con không biết
phải làm gì để vượt qua hoàn cảnh khó khăn nan giải... Trong những
giờ phút đau thương ấy, xin cho chúng con biết chạy đến nép mình dưới
tà áo Mẹ, để được Mẹ ủi an che chở, để được Mẹ cầu cùng Chúa
Giê-su ban cho chúng con các ơn lành hồn xác. Nhất là xin Mẹ đừng để
khi nào chúng con sa vào con đường lầm lạc. Xin dạy chúng con luôn
lắng nghe Lời Chúa Giê-su con yêu của Mẹ, như Mẹ đã dạy các người giúp
việc tại Ca-na xưa.
X) HIỆP CÙNG MẸ
MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH
- HHTM